Nguồn : Vững Đại Phát
Alan Phan
27 July 2015
Đời sống không phải là một bài toán cần giải đáp mà là một thực tại cần trải nghiệm – Life is not a problem to be solved, but a reality
to be experienced – Soren Kierkegaard
27 July 2015
Đời sống không phải là một bài toán cần giải đáp mà là một thực tại cần trải nghiệm – Life is not a problem to be solved, but a reality
to be experienced – Soren Kierkegaard
Khoảng 2002, trong cuộc tranh cãi với một đại gia Mỹ, hai chúng tôi
đánh cược vào một tình thế chính trị đang “hot” lúc bấy giờ. Khủng bố
Hồi Giáo đã đánh sập tòa nhà World Trade Center ở New York năm ngoái,
dân Mỹ sôi sục với an ninh quốc gia, và TT G. W. Bush đang chuẩn bị đổ
quân vào Iraq, lấy lý do tiện lợi là Hussein có thể đe dọa Mỹ và thế
giới với “weapons of massive destruction” (WMD, vũ khí có sức tàn phá
diện rộng). Ông bạn đại gia Mỹ hờ hởi tin rằng cuộc chiến mới sẽ thay
đổi bộ mặt chính trị và xã hội của Trung Đông, đặc biệt là kinh tế dầu
khí… Là siêu cường duy nhất còn lại, khi Mỹ kiểm soát nguồn năng lượng
quan trọng này, thế giới sẽ có Pax Americana (thời đại thanh bình kiểu
Mỹ)….
Quan điểm trái ngược của tôi là bộ mặt Trung Đông đã hình
thành qua cả ngàn năm lịch sử, văn hóa, chính trị, xã hội, giáo dục… nó
sẽ không thể thay đổi trong vài năm chỉ vì Mỹ và ông Bush có ước muốn
như vậy. Dù lý tưởng và triết thuyết có hay đẹp đến đâu, thực tại luôn
là một “son of a bitch” (con chó đẻ). Tôi kết luận là sau 2 nhiệm kỳ
(nếu ông Bush tái cử) , Iraq sẽ không khác gì ngày nay, a messy nation
under some form of dictatorial regime (một quốc gia hỗn loạn dưới một
hình thức độc tài nào đó). Riêng Trung Đông, it’s the same old story
(thành ngữ VN là –vũ như cẩn).
Lúc đó, căn nhà ở Hồng Kông của
tôi có trưng bày một lộc bình thời Khang Hy rất quý. Tôi không sưu tầm
đồ cổ, nhưng mua được với giá quá hời từ một công ty nhà nước nhỏ ở Xian
(Tây An). Ông đại gia Mỹ thèm thuồng đòi mua lại, thuê cả người định
giá là khoảng 30 ngàn đô la, nhưng tôi không bán. Sẵn đó, ông cược với
tôi là nếu nhận xét của ông đúng, khi Iraq và Trung Đông đã ngoan ngoãn
trong vòng tay Mỹ, thì 6 năm nữa, ông sẽ làm chủ chiếc lộc bình này. Nếu
ông sai, ông sẽ ghé Hồng Kong và trả tôi 30 ngàn tiền thua cuộc. Tôi
đồng ý, nhưng năm sau, vợ tôi bán chiếc lộc bình khi trang trí lại nhà
cửa (không biết sau này ông TBT Trọng có là chủ nhân?). Tôi thấp thỏm cả
mấy năm trời, nghĩ là phải mất 30 ngàn nếu thua cược. May mắn sao,
trước khi TT Bush hết nhiệm kỳ hai, ông đại gia Mỹ ghé Hồng Kong, tìm
tôi và trả tôi chi phiếu 30 ngàn đô la như một gentleman.
TPP và cao trào của hy vọng
Vừa rồi, khi đài truyền hình Saigon TV ở California phỏng vấn tôi về
TPP, tôi tranh luận với ông bạn cũ Lương Đức Hợp, là TPP sẽ chẳng thay
đổi gì bộ mặt chính trị và xã hội của Việt Nam chút nào trong thập niên
tới. Về kinh tế vĩ mô thì TPP có thể ảnh hưởng nhưng không nhiều; riêng
lợi và hại cho Việt Nam cũng chưa chắc đã cân xứng như những lời xưng
tụng.
Trước khi tôi trình bày quan điểm, anh Hợp cho rằng TPP,
theo pháp lý, sẽ bắt Việt Nam phải thay đổi cơ chế theo thị trường,
quyền điều hành công đoàn sẽ tự do hơn, nhân quyền được tôn trọng, bản
quyền trí tuệ được bảo vệ và quyền lợi của doanh nghiệp tư nhân sẽ do
pháp trị định đoạt. Khi vào TPP, Việt Nam sẽ được công nhận chính thức
là một thành viên mới của nền kinh tế liên thông, sẽ gia tăng xuất khẩu,
cùng thu nhập của người dân và quan trọng nhất, là Việt Nam sẽ đứng về
phía Mỹ để thoát Trung.
Tôi nhắc lại, thực tại là son of a bitch.
Về pháp lý và cơ chế “hành” chính, Việt Nam có một hiến pháp vừa hoàn
thiện, một bộ luật dầy đặc những khôn ngoan của mọi triết thuyết, và một
bộ máy gồm toàn các tiến sĩ, giáo sư, học giả…với đủ loại bằng cấp đen
trắng đỏ vàng. Nhưng mọi tầng lớp của xã hội, từ người làm ra luật, thi
hành luật, hay “chịu đựng” luật… đều giống nhau ở chỗ “nobody give a
shit” (không ai quan tâm). Xui bị công an kêu lại thì lo mà móc túi nộp
mãi lộ. Không mấy ai mất thì giờ (hay mất mạng) để tranh cãi trừ khi mắc
bệnh tâm thần (kiểu VN).
Ảo tưởng muôn đời của lý tưởng Âu Mỹ
Mọi điều phân tích khác của anh Hợp rất tương tự với lý luận mà Nixon
và Kissinger đã “bán” cho dân Mỹ 43 năm trước, khi ôm hôn Mao và “mở
cửa” Trung Quốc. Hai ông chính trị gia cho rằng nếu giúp cho Trung Quốc
giàu có thịnh vượng hơn, chính quyền Cộng Sản sẽ “tự diễn biến” và trở
nên dân chủ, tự do, nhân đạo, hòa bình…hơn. Sau đó, tiền ào ạt đổ vào
Trung Quốc, vô sản biến thành “tư bản đỏ” nhưng các vị tư bản COCC này
lại rất khác biệt với những hình tượng về tư bản mà Mỹ mong ước. XHCN
theo sắc mầu Trung Quốc hay Thiên An Môn là một miếng xương hóc búa khó
nhai cho Mỹ và những đồng minh.
Lợi và hại của TPP trên nền kinh tế Việt
Ngoài cái ảo tưởng phổ thông nói trên, hiệp định TPP còn chất chứa
nhiều ảo tưởng khác. Nhưng trước khi bàn sâu về ảo tưởng, cho tôi định
vị lại những “lợi” và “hại” của TPP với nền kinh tế Việt Nam.
Những cái lợi thì các mạng truyền thông và chuyên gia của chính phủ đã “ca cảnh” quá nhiều:
- Mở rộng thị trường xuất khẩu qua nhiều quốc gia thành viên,
tạo hiệu ứng tăng trưởng mạnh mẽ cho GDP và thu nhập cá nhân (dựa trên
GDP);
- Lượng FDI và FII (đầu tư trực tiếp và gián tiếp
của nước ngoài) sẽ gia tăng vì theo TPP, hàng rào thuế quan, bản quyền
trí tuệ và thao túng tỷ giá…sẽ giảm thiểu tối đa. Ngoài ra, khi đầu tư
nhà máy vào Việt Nam, những dự án FDI từ Trung Quốc hay Hàn Quốc sẽ
hưởng lợi từ thị trường của các quốc gia thành viên. Cũng trong khung
cảnh tích cực đó, kiều hối (một thành tố vô cùng quan trọng cho ngân
sách) sẽ tát nước theo mưa.
- Khi kinh tế phát triển và
hội nhập sâu, nhu cầu lao động sẽ lên cao hơn và cấp chuyên viên sẽ hăng
hái trau luyện kỹ năng thêm để tăng thu nhập.
- Với
chuẩn mực mới về cạnh tranh quốc tế, có thể sản phẩm và dịch vụ của các
doanh nghiệp Việt sẽ được cải thiện về chất lượng, công nghệ và thương
hiệu.
Những cái lợi trên cũng đi kèm với vài thực tế hơi chua chát và những cái hại mà TPP sẽ gây ra cho nền kinh tế:
- Hiện nay, 72% tổng lượng xuất khẩu của Việt Nam là từ các
doanh nghiệp FDI. Tôi không tìm ra dữ liệu là phần chia lại cho lao động
và thuế lợi tức của Việt Nam được bao nhiêu phần trăm? Tôi đoán là dưới
5% vì giá nhân công quá rẻ, gia công những phân khúc sản xuất nhỏ là
chính, rồi chánh phủ lại miễn trừ nhiều loại thuế với giá khuyến mãi cho
đất đai hạ tầng. Như tình trạng đã xẩy ra cho Trung Quốc, khi những
điều kiện kiếm tiền của nhà đầu tư ngoại kém đi (giá nhân công, thuế,
luật, giá đất…lên cao) , họ sẽ đi tìm những nơi chốn khác.
-
Kỹ năng chuyên viên và chất lượng sản phẩm có tăng nhưng sức cạnh
tranh của doanh nghiệp nội địa rất yếu. Như một cậu học trò mẫu giáo
được khuyến khích để bắt kịp các bạn đã vào đại học. Việc khả thi sẽ là
một vấn nạn về khoảng cách kiến thức, tư duy và thời gian.
-
Với TPP, chúng ta không kiếm được nhiều ở các thị trường
Âu-Mỹ-Nhật, nhưng thị trường nội địa phải được rộng mở để hàng ngoại tự
do xâm nhập. Khi sản phẩm Việt bị giá rẻ của hàng Trung Quốc, Thai Lan
cạnh tranh từ phía thấp, còn lại bị đè bẹp bởi chất lượng của hàng Âu,
Mỹ, Nhật…ở phía trên; thì lợi thế cạnh tranh càng ngày càng thu hẹp cho
mọi doanh nghiệp Việt.
- Đáng quan tâm nhất là lĩnh vực
nông nghiệp: lúng túng với bộ máy “hành” chính nông thôn, phí thuế ngất
ngưỡng cao rồi lối canh tác cổ truyền manh mún, nông dân Việt sẽ chịu
gánh nặng khủng của TPP.
- Trong khi đó, với dòng tiền
mới từ FDI và kiều hối, quyền lợi và quyền lực của nhóm nhỏ siêu giàu sẽ
gia tăng mạnh mẽ. Các phe nhóm không những kiểm soát mọi hoạt động
huyết mạch như tài chánh ngân hàng chứng khoán; mà còn tạo ra các chính
sách hổ trợ đắc lực cho những dự án BDS, xây dựng hạ tầng, khai thác
khoáng sản…của phe nhóm.
Chuyện nhân quyền
Giữa lợi và
hại, tùy vị thế chánh trị và xã hội, TPP sẽ khiến vấn đề “nhân quyền”
trở nên ít cấp bách hơn vì người Việt chỉ cần chút cải thiện về mức sống
vật chất là đã thỏa mãn và chấp nhận mọi bất cập từ chính phủ. Chúng ta
thấy rõ là sau khi “đổi mới”, cho đến nay, môi trường sinh hoạt của
Việt Nam còn xuống cấp, tệ hơn cả Lào, Kampuchia (chưa cần so sánh với
Singapore hay Hàn Quốc); nhưng phần lớn người Việt, kể cả các giới trẻ,
đã happy ăn nhậu, cà phê, mê chuyện siêu sao, đá bóng…mà không quan tâm
đến chính trị hay văn hóa. Mặc cho nước ngập mỗi ngày mưa tại Hà Nội và
Saigon, hay ô nhiễm thực phẩm, không khí, hay kinh tế bị Trung Quốc đô
hộ; dân Việt vẫn được tiếng là “hạnh phúc và lạc quan” nhất nhì thế
giới. Khi người dân địa phương không “care” thì mọi hoạt động về nhân
quyền của các hội đoàn trong hay ngoài nước sẽ èo uột hơn. Các chính phủ
Âu, Mỹ…cũng sẽ thờ ơ với vấn nạn này, không cần phải đánh võ mồm để làm
vui lòng nhóm cử tri gốc Việt.
Ảo tưởng của hai bên
Cùng với một thực tại khá chua chát, TPP là xúc tác cho vài ảo tưởng khác của nhiều thành phần.
Ngoài ảo tưởng về dân chủ tự do như đã nói bên trên, chính phủ Mỹ luôn
mơ về một Việt Nam mạnh mẽ, liên minh với các đồng minh tư bản để chặn
tham vọng bá chủ của Trung Quốc trong khu vực. TT Obama còn gắng hoàn
thành việc “xoay trục về châu Á” và TPP như một di sản lịch sử vào cuối
nhiệm kỳ. Cái giá phải trả cho ảo tưởng này thực ra không to lớn lắm so
với kích cỡ của kinh tế Mỹ, nhưng thất vọng là thất vọng. Quan hệ giữa
chính phủ và đảng CS của Việt Nam và Trung Quốc sâu xa hơn cả 16 chữ
vàng. Thực ra nó là “lá chắn” của cả 2 đảng bộ trước “diễn biến hòa
bình”, đồng nghĩa với sự sinh tồn và quyền lực của vài chục triệu đảng
viên tại 2 nước.
Trong khi đó, nhiều quan chức và chuyên gia Việt
Nam lại ảo tưởng quá nhiều về “con bài” Mỹ trong bàn cờ mà họ cho là
khôn ngoan, thủ đoạn của họ. Họ tin rằng chỉ việc để cho tư bản Mỹ vô
làm ăn; rồi chém gió vô tội vạ về nhân quyền, tôn giáo, công đoàn…là
chính phủ Mỹ sẽ mở rộng hồ bao (và biên giới) để các quan chức kiếm tiền
và giấu tiền. Thêm vào đó, nếu đàn anh Trung Quốc có ức hiếp bóc lột
nhiều quá, như chiếm đất chiếm biển…thì quân đội Mỹ sẽ mạnh tay can
thiệp. Chính phủ Mỹ dù đôi khi giả vờ ngây thơ, nhưng khối điều nghiên
chính trị, kinh tế của họ luôn nhậy bén. Họ biết tính ra từng con số
(tiền hay sinh mạng) để thẩm định giá phải trả. Không cân xứng là không
thực hiện, mặc cho những sáo ngữ “đối tác toàn diện” hay “toàn bịp”.
&&&&&
TPP không phải là hiệp ước thương mại tự do (free trade agreement –FTA)
duy nhất của Việt Nam. Trong 2 năm qua, Việt Nam đã ký 8 FTA với ASEAN,
ASEAN + , Hàn Quốc, Chile, Liên Minh Nga-Kazakistan-Belarus…Kết quả của
các FTA này không gì là ấn tượng, vì ngoài những doanh nghiệp FDI, công
ty nội địa Việt chưa đủ sản phẩm và dịch vụ chất lượng, giá cao để xâm
nhập những thị trường này. Mức sống người dân không có cải thiện gì đáng
kể. Nghịch lý và mâu thuẫn còn trùng điệp trong xã hội và cơ chế. Chỉ
có những quan chức và đại gia là có thêm những phần bánh ngon ngọt.
Bây giờ, nếu được gia nhập TPP, miếng bánh này có thể lớn gấp nhiều lần
các FTA hiện tại. Và may mắn thì người dân sẽ có chút mảnh vụn tung tóe
đâu đó. Các lãnh đạo 2 chánh phủ Việt, Mỹ sẽ hờ hởi khen tặng nhau vì
dù sao, TPP cũng là một cột mốc lịch sử như… hiệp định Geneva, hiệp định
Paris, hay WTO hay hiệp ước song phương Việt-Mỹ.
Nhưng với khách quan của người ngoài cuộc, thì TPP là khi kẻ cắp gặp bà già.
Alan Phan