Thứ Năm, 9 tháng 4, 2015

Nước Nga Mến Yêu

Nguồn : Vững Đại Phát 
Blog Người Buôn Gió – 7/4/2015
Hồi bé nước Nga gọi là Liên Xô. Lúc ấy mình thích Liên Xô lắm, đầu tiên mình nghe được là người Liên Xô coi Việt Nam như đứa em, giúp đỡ hết mình, viện trợ ( tức là cho ) đủ thứ từ bột mỳ đến cái máy cày.
Thứ ngoại ngữ mình học được ở trường là tiếng Nga, cuốn sách dạy tiếng Nga là cuốn sách đẹp nhất trong số SGK, bìa dày bọc vải gai sần, bên trong giấy trắng bóng, hình minh hoạ in màu cực đẹp.
Bọn trẻ con chơi ngoài đường, phá phách cái gì đều bảo nhau – tội đâu Liên Xô chịu
Liên Xô hào hùng và lãng mạn qua những bộ phim và các cuốn tiểu thuyết, dạo ấy ra đường nhìn thấy người nước ngoài đều nghĩ đó là người Liên Xô tất. Nhất là người lính tình báo đẹp trai, giỏi đấm bốc trong cuốn Đứng Vững Đến Cùng.
Liên Xô là thiên đường trong bộ óc của mình suốt cả tuổi thơ.
Bỗng nhiên một hôm mình đọc được cuốn Những Đứa Con phố Arbat, sách có 3 tập, mình chỉ đọc được 2 tập. Tập 3 kiếm mãi không thấy. Đọc xong 2 tập sách, mình thấy kinh hoàng, tình trạng của những thanh niên phố Arbat không khác gì những người thanh niên ở Hà Nội. Cũng tập trung cải tạo, cũng công an mật theo dõi, hàng xóm cũng tố giác nhau. Rồi cũng vì vài ba câu thơ vui vui mà một chàng trai trẻ phải đi đầy trong trại tù rừng thẳm Xi Be Ri.
Mình so sánh với chú Quý, một người đàn ông gầy gò. Vợ bỏ do chú ấy bị đi tù, ai cũng xa lánh chú ấy, mọi người nói chơi với thằng ấy là nguy hiểm, nó làm mình chết lây đấy. Chú Quý làm thợ hàn, lúc có việc lúc không, nhà chú trống hoác chả có gì. Một mình chú rang một đống lạc pha muối ăn dần với cơm. Con gái chú rất xinh, nó ở với mẹ. Nó cũng ghét bố vì mẹ nó nói bố nó là người hư hỏng.
Mình chả thấy chú hư hỏng gì, chú có việc thì làm chăm chỉ. Nhà chú nghèo nhưng nhiều sách, mình đến chơi nằm đọc cả ngày cũng được. Chắc chú buồn, thấy mình nên cũng kệ cho vui nhà. Rồi có lần chú lĩnh lương, làm món bún bò cho mình ăn cùng, chú sai đi mua rượu. Về hai chú cháu ăn, chú vừa ăn vừa uống rượu trầm ngâm. Mình đánh bạo hỏi sao chú bị đi tù.
Chú nghĩ một lúc, nhấp vài ngụm lại nghĩ, như là không nghe thấy câu hỏi. Mãi sau đột nhiên chú kể.
Lúc đó chú làm công đoàn nhà máy cơ khí, gần Tết bạn cùng nhà máy của chú trúng thưởng gì đó được một cái xe đạp Phương Hoàng màu ngọc bích. Lúc mọi người xúm vào xem xe, chú cũng xem và ngẫu hứng đọc câu thơ chế.
Xuân này hơn hẳn những xuân qua
Phương Hoàng ngọc bích đã về ta.
Vợ chồng làm tốt, con học giỏi
Niềm vui chan chứa khắp trong nhà.
Nửa tháng sau khi đọc bài thơ chế chúc mừng bạn có xe đạp, công an đến khám nhà chú, thu sách truyện một đống. Chú bị đi tù 4 năm vì tội xuyên tạc thơ chủ tịch HCM với ý đồ chế giễu …âm mưu phản động.
Vợ chú bỏ chú luôn, đi tù về chú lang thang ai thuê gì làm đấy. Mọi người ai cũng xa lánh chú.
Mình liên tưởng chú đến chàng sinh viên trong truyện Những Đứa Con Phố Arbat, tự thấy những chuyện bắt tù như này không đúng tí nào. Dạo ấy học văn giỏi nên cũng ham suy luận, mình nghĩ câu thơ chế ấy rất vui, thậm chí nó còn tốt để phổ biến thơ Bác cho nhân dân, thế mà bị bắt đi tù những 4 năm. Rồi về gia đình tan nát, thân cô thế cô bữa đói bữa no thì tội.
Hoá ra Liên Xô cũng ác như Việt Nam. Nước Nga của mình không chỉ có Cây Phong Non Trùm Khăn Đỏ, Bình Minh Mưa, Bông Hồng Vàng mà còn đã có thêm Một Ngày Trong Đời của I Van, Quần đảo Gu Lắc, Vĩnh Biệt Tình Em ( tức đốc tờ Zivaho ) của Sài Gòn cũ xuất bản.
Liên Xô thiên đường của mình còn là địa ngục, nơi đó những câu nói vu vơ, đùa cợt cũng có thể khiến người ta đi tù như chú Quý.
Mình không thích nước Nga nữa, sau này lớn chút thì hiểu, nước Nga và chế độ Nga khác nhau, người dân Nga cũng bị chế độ Xô Viết làm cho khốn khổ. Nước Nga xưa có những đại văn hào, danh hoạ, nhạc sĩ, hiền triết cũng rất đáng mến yêu. Còn nước Nga Xô Viết của Stalin lại là một nước Nga khác hoàn toàn với Puskin, Pautopxky…đã miêu tả.
Khi đi qua Hung, Tiệp, Ba Lan mấy năm trước, càng ngạc nhiên hơn khi biết người dân những nước này còn ghê sợ lính Nga hơn là lính phát xít Đức. Ở Hung Ga Ri trong một viện bảo tàng, mình xem được đoạn phim những tên mật vụ phát xít Đức người Hung khi quân Liên Xô tiến vào chúng chỉ thay bộ quần áo khác và vẫn làm mật vụ. Những nhà tù, chỗ tra tấn, hành hạ tù nhân của bọn mật vụ Hung Nga còn khủng khiếp hơn bọn mật vụ Hung Đức chục lần.
CCCP tan rã, đã 20 năm người Nga được thay thế ở Việt Nam bằng một người anh tốt khác là Trung Quốc. Tình cảm lần này có vẻ mặn mà hơn vì không những cùng lý tưởng XHCN mà vì còn là láng giềng gần gũi.
Người Nga lúc trước đi, để lại cho Việt Nam hoang tàn, đói khỏi vì chủ nghĩa bao cấp, hợp tác xã và cái thói đóng cửa ngoan cường không thèm đếm xỉa đến thế giới, chỉ cần có anh bạn Liên Xô là đủ. Vô tình tạo một điều kiện lý tưởng để anh bạn Tàu tiếp quản và áp đặt ảnh hưởng.
Bây giờ người anh lớn Tàu có vẻ muốn nhường lại ảnh hưởng ý thức hệ ở Việt Nam cho anh lớn Nga tiếp quản, sau khi đã huỷ hoại môi trường, đào sạch tài nguyên, thôn tính được cả mớ đất đai, lãnh hải chắc chắn rồi. Còn chỗ chưa thôn tính được, trước cảnh Nhật, Mỹ, Ấn cản trở. Anh Tàu giơ một chân để anh Nga có chỗ đứng cùng.
Có vẻ như một lần nữa, anh Nga và Tàu lại bắt tay để xây dựng Việt Nam thành tiền đồn chống thực dân, đế quốc.
Sự có mặt của Nga ở Việt Nam, nhất là một căn cứ quân sự Nga sẽ khiến Mỹ phải bỏ xa vùng biển Việt Nam vì e ngại xung đột lớn. Những tranh chấp còn lại giữa Việt, Tàu sẽ được anh Nga làm ngơ vì không can thiệp vào công việc nội bộ , để cho hai nước song phương giải quyết. Y như hồi Gạc Ma, anh Nga đóng ở Cam Ranh đã làm ngơ trước việc Tàu chiếm đảo, bắn giết lính Việt Nam.
Chủ trương làm em kết nghĩa của hai anh lớn Nga, Tàu đều do ĐCSVN quyết định. Mới đây TBT đã ký kết hợp tác toàn diện giữa đảng CS với đảng Putin, cùng với việc TBT Trọng dẫn các đoàn viên, lớp hậu thế sang TQ để bàn giao việc giáo dục nhồi sọ tinh thần phụng Tàu cho lớp lãnh đạo trẻ sau này.
Sở dĩ hai anh Nga, Tàu ráo riết như vậy, vì các anh thấy âm ỉ một làn sóng trong nhân dân Việt Nam muốn thoát khỏi cảnh chư hầu cho các anh, hướng đến một xã hội văn minh phương Tây. Những tên chủ nô không bao giờ muốn nô lệ của mình tự do cả, bằng cách này hay cách khác chúng phải buộc những tên nô lệ tan rã ý chí tìm kiếm tự do, tiếp xúc với sự văn minh của xã hội. Chúng vẽ ra bầu trời bên ngoài là u ám, là bạo động, là chết chóc, bất ổn. Chỉ ở trong vòng vây của chúng là an toàn.
Nhân dân Việt Nam ưa chuộng hoà bình, địt mẹ, nói thế thì nhân dân phương Tây đều thích chiến tranh bạo động chăng.? Từ hoà bình ở đây còn có nghĩa chính là sự ổn định. Chứ thằng Việt Nam nợ đầm đìa, vũ khí, khí tài cũ rích, máy bay tập huấn hơi tí là rụng, tướng tá béo núc không đi nổi thì định chiến với ai mà không mong hoà bình. Ổn định ở đây mấu chốt là giữ nguyên hiện trạng chư hầu cho các anh Nga, Tàu, đừng có mơ tiếp cận nền văn minh, tiến bộ nào. Cứ ngoan ở trong vòng tay che chở của các anh.
Ngoan ngoãn đi nhân dân Việt Nam, ngoan mà hưởng sự ổn định.
Anh mày là thằng lưu manh, giờ ấm thân ở tư bản, tháng chả làm gì cũng lãnh 2 ngàn Euro, đéo hơi đâu nói nhiều để chúng nó bảo là kích động gây loạn, phá hoại đời sống yên bình của nhân dân Việt Nam.
Mai này anh quay sang ca ngợi cộng sản, mong cho nó độc tài mãi mãi, có thế anh mới thấy sự sung sướng của mình. Nịnh cộng sản vài bài, lúc đó anh về Việt Nam với mác Việt Kiều yêu nước, rồi được lên ti vi còn oai gấp tỉ lần bọn Nguyễn Phương Hùng, Nguyễn Ngọc Lập…cỡ bọn đó trình viết, giọng điệu không bằng một góc của anh. Anh tha hồ xông xênh tìm gái công nhân chơi. Như hôm anh đi ta xi thằng taxi nói, giờ gái công nhân rẻ lắm, chỉ hơn trăm là múc được, sạch, ngon, chất. Vì bọn công nhân thất nghiệp nhiều, lương ba cọc, ba đồng không đủ sống.
Nếu mà Việt Nam giàu mạnh như tư bản, anh làm gì có được cơ hội xênh xang, làm đéo gì có ban tuyên huấn, tuyên giáo để anh được vinh danh là Việt Kiều yêu nước tiến bộ , một lòng hướng về quê hương, một lòng tin Đảng, tin chế độ.
Nào thì mến yêu người Nga trở lại thật nhiều đi nhân dân Việt Nam yêu chuộng ổn định.
Người Buôn Gió
(Blog Người Buôn Gió)

Loạt Bài Về Saigon SAU 1975

Nguồn : Vững Đại Phát 
Loạt Bài Về Saigon SAU 1975
GNA: Loạt bài về Saigon TRƯỚC 1975 đã gây nhiều phản hồi: những người dân Saigon cũ và mới nhìn lại những hình ảnh cũ và nhận ra một “biển dâu” thực sự đã thay đổi cuộc đời của chục triệu người và không gian sống của họ đã chìm khuất hoàn toàn vào một “hành tinh” khác.
Để tìm một góc nhìn khác, GNA sẽ lần lượt cho đăng lại những mẩu chuyện và hình ảnh về Saigon SAU 1975. Lăng kính của Đảng và Nhà Nước thì chúng ta đã quá rõ, GNA không cần đăng lại nơi đây (đã có hơn 700 loa phường khắp xứ lảm nhảm hàng ngày). Chúng tôi sẽ chỉ ghi lại những suy ngẫm, hồi ức và tâm tư của những NGƯỜI DÂN (Saigon cũ hay nhập cư mới) để chúng ta có chút đồng cảm về một giai đoạn lịch sử vô cùng khác biệt của Saigon.
GNA sẽ tránh đề cập về chính trị, lãnh tụ hay lịch sử. Chỉ có những mảnh đời rất DÂN, rất Saigon. (Xin các BCA khó tính tha lỗi cho tính cẩn thận của GNA với những điều cấm kỵ liên quan đến quyền lực).
Tuy nhiên, để các dư luận viên im mồm, chúng tôi xin nhắc lại trước hết quan điểm của chính phủ về ngày đại thắng 30/4:
“Theo kế hoạch tổ chức các hoạt động kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2015) vừa được UBND TP HCM ban hành, thành phố sẽ tổ chức khánh thành các công trình: cải tạo kênh và đường dọc kênh Tân Hóa – Lò Gốm trước ngày 15/3; tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh trước ngày 30/3……..
Các điểm bắn pháo hoa gồm: khu vực đường hầm sông Sài Gòn (quận 2); Đền tưởng niệm liệt sĩ Bến Dược (huyện Củ Chi); Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã Ba Giồng (huyện Hóc Môn); Khu di tích Láng Le – Bàu Cò (huyện Bình Chánh); Sân bóng đá huyện Cần Giờ; Công viên lịch sử – Văn hóa Dân tộc (quận 9) và Công viên Văn hóa Đầm Sen (quận 11).…..
Trước đó, Thủ tướng đã phê duyệt Kế hoạch tổ chức các hoạt động kỷ niệm 40 năm ngày thống nhất đất nước. Theo đó, các bộ, ngành trung ương sẽ chủ trì lễ mitting tại lễ đài ngã tư Lê Duẩn – Pasteur, Công viên 30/4 (quận 1). Thời gian tổng duyệt vào lúc 7h ngày 26/4 và chính thức diễn ra lúc 7h ngày 30/4, trong lễ mitting sẽ có tiết mục thả bong bóng và chim bồ câu.
Sau đó sẽ là lễ diễu binh, diễu hành với sự tham dự của khối nghi trượng, các khối diễu binh (các khối đi tay không, các khối đi có súng, có khí tài) và các khối diễu hành quần chúng.”
Bây giờ đến lượt NGƯỜI DÂN:
Bài 1: Hồi ức Việt Nam
Hà Trinh – VOA – 7 April 2015
Những hồi ức về Việt Nam, với tôi, là những hồi ức buồn.
Hơn hai mươi năm rời xa quê hương, mỗi khi giấc mơ Việt Nam trở về trong tôi, nó chỉ nhuốm toàn nỗi buồn, niềm lo sợ, đến mức nó có thể đánh thức tôi vào lúc nửa đêm. Rồi, tôi chỉ biết nằm thao thức, miên man suy nghĩ về những điều đã xa vẫn ám ảnh tôi như mới hôm nào.
Cuộc chiến tranh Việt Nam chấm dứt khi tôi vừa chín tuổi. Sài Gòn khi ấy, tháng Tư 1975, náo loạn bởi tiếng bom rơi, tiếng đạn nổ chát chúa, trong sự hoảng loạn của một thành phố hoa lệ. Tôi không quên nổi hình ảnh mẹ tôi, một người đàn bà trẻ mới ngoài ba mươi, đang ôm đứa em gái đỏ hỏn vài tháng tuổi của tôi, ngồi khóc nức nở. Tôi không quên được hình ảnh bà nội tôi, già yếu tóc bạc trắng xóa, nắm lấy tay bố tôi, vừa van xin, vừa mắng mỏ bắt ông phải di tản khỏi Sài Gòn, bởi ông là sĩ quan của quân đội miền Nam. Tôi không quên nổi hình ảnh bố tôi, mắt tràn mi năn nỉ bà nội tôi cho ông ở lại vì ông không bỏ được gia đình và cha mẹ già ở quê nhà, khi lệnh di tản cuối cùng chỉ cho một mình ông được phép ra đi. Ông ngoại tôi, như chiếc bóng, ngồi lặng lẽ, bất động trong một góc tối trên ghế sofa. Đôi mắt ông nhìn xa xăm vào một góc nào đó khi bên tai văng vẳng tiếng nói từ trên chiếc radio kêu gọi buông súng đầu hàng.
Trong đêm hai mươi chín tháng Tư lịch sử đó, cả nhà tôi núp trốn trong một cái hầm cá nhân tại nhà. Cái đêm dài lịch sử ấy, tôi vẫn không quên được tiếng bom rơi, đạn nổ, tiếng khóc nức nở của mẹ, tiếng cầu nguyện của bà, tiếng còi báo động xé màn đêm, tiếng gầm rú của những chiếc máy bay phản lực trên bầu trời, rồi tiếng quạt gió xình xịch của những chiếc trực thăng vần vũ trên bầu trời, tiếng bánh xích của những chiếc xe tăng nghiến trên đường nhựa, nghe rào rạo…Tôi không thể nào nhận biết những tiếng đó từ phe ta hay phe Cộng. Tôi chỉ ngồi im lặng nghe lời đoán: quân ta, quân địch của hai ông anh của mình. Và rồi, có lúc tôi lại nghe tiếng thét hãi hùng của những người, có lẽ bị thương đâu đó…
Trong cơn hoảng loạn, tôi bừng hiểu: chiến tranh đã chạm đến Sài Gòn của tôi.
Mới chín tuổi đầu, tôi đã phải tiễn bố tôi lên đường vào trại cải tạo. Bố ôm từng đứa con nhỏ, an ủi, vỗ về, bảo “mấy con chóng ngoan, bố học tập chừng một tháng sẽ trở về phụ giúp mẹ, bà và bác nuôi dạy tụi con”. Bố vỗ vai người anh lớn của tôi, bảo ráng phụ giúp ông bà, mẹ và bác dạy dỗ các em, làm gương tốt cho các em noi theo. Anh tôi, nước mắt ngần ngật, đong trên khóe mắt, gật đầu. Tôi biết rằng, ở lứa tuổi mười ba ấy, anh tôi chẳng hiểu nổi làm gương tốt là như thế nào để dạy cái đám em đang tuổi lớn, ăn như tằm ăn rỗi.
Mẹ tôi ngồi khóc lặng lẽ, ôm đứa em mới hai tháng tuổi, nhìn bất động vào khuôn mặt măng sữa kia. Bố tiến đến gần, chỉ biết ôm lấy vai mẹ, rồi đưa tay đỡ đứa bé, xiết chặt vào lòng. Đứa em tôi vẫn thiêm thiếp ngủ sau khi no sữa mẹ. Trao em lại cho mẹ, bố quay đi, lầm lũi ra ngoài đầu xóm. Cả nhà tôi, lủi thủi đi theo bố trông như một đám tang buồn.
Một người lính bộ đội Bắc Việt cầm súng, nhìn bố tôi thúc giục, leo lên chiếc xe cam nhông bít bùng. Trên đó đã có những con người ngồi co ro, cúi mặt. Bố chỉ xách chiếc ba lô quân đội, trong đó chỉ gói ghém vài bộ đồ, những vật dụng cần thiết cho “một tháng học tập”. Bố lặng lẽ lên xe, không quay đầu lại. Chiếc xe lăn bánh khi tấm bạt phủ xuống. Cuộc đày ải bắt đầu! Bố đi suốt mười năm biền biệt…
Làm sao tôi quên được!
Miền nam sau tháng Tư 1975 oằn mình thay đổi. Sài Gòn cũng rướm máu đổi thịt thay da. Tôi còn quá nhỏ để có thể làm một cuộc so sánh, dẫu chỉ mang tính ước lệ của cái thủ đô từng được mệnh danh là “Hòn ngọc Viễn đông” với thành phố Hồ Chí Minh, nơi tôi đang sinh sống. Chỉ biết một điều tôi không còn được nghe những bản nhạc mình yêu thích, không được đọc các truyện tranh dành cho trẻ con, không được mặc áo đầm đi học, không được mẹ cho tiền ăn sáng trước khi đến trường…Và còn nhiều “cái mất”, cũng như “cái không” xuất hiện sau khi miền Nam đổi chủ.
Những ngày sau đó, nếp sống náo nhiệt, năng động, ồn ào của một thành phố mệnh danh là thủ đô của miền nam, bất chợt đổi thay, bất chợt khép kín. Mọi người ra đường lầm lũi, len lén nhìn nhau. Nỗi bất an, nỗi lo sợ đọng trong mắt từng người Sài Gòn. Những nét hào nhoáng của một thủ đô hoa lệ chợt biến đi để thay vào một thành phố ảm đạm, bất an. Những chiếc xe đạp ùa ra đường thay cho những chiếc xe hơi, xe gắn máy. Áo bà ba trở thành loại y phục thường ngày của người Sài Gòn, thay cho chiếc áo dài thướt tha, cổ điển, hay những chiếc quần tây ống loe, chiếc áo đầm hiện đại. Người Sài Gòn khép kín, ngơ ngác, vêu vao. Đường phố Sài Gòn vắng vẻ, đìu hiu, cam chịu.
Hồi ức của tôi về Việt Nam sau ngày thống nhất là những mất mát, những đau thương. Tôi đã chứng kiến những chiến dịch chống tư sản mại bản được phát động trong thành phố. Từng đoàn học sinh, sinh viên được khuyến khích tố cáo những đám người mà chính quyền kết tội là bọn tư bản lũng đoạn kinh tế nước nhà. Để chứng minh lòng yêu nước, lớp thanh thiếu niên mới phải tố cáo họ với chính quyền, cho dẫu những người đó là ông bà, cha mẹ, anh em hay là bạn bè, người thân.
Tôi đã thấy những người bạn tôi, vì rơi trong diện Tư Sản Mại Bản, mà bị đuổi khỏi căn nhà nơi họ sinh sống, bị phân biệt đối xử không chỉ ngoài xã hội mà cả trong học đường. Những cái chết tức tưởi vì bị cướp đất, cướp nhà. Những căn nhà bị đập nát, những đoàn người bị xua đuổi khỏi thành phố về các vùng nông thôn hẻo lánh. Để rồi vài tháng sau, họ, những những con người đó lại âm thầm trở về thành phố, gia nhập vào đám người ăn mày như những thây ma vất vưởng, sống lê la dưới gầm cầu, dưới mái hiên nhà, chỉ mơ một ngày trở lại căn nhà chôn nhau cắt rún mà nay đã thay tên đổi chủ.
Trong lớp học, tôi và các bạn tôi nói về những chuyến vượt biển nhiều hơn là những phương trình toán học. Chúng tôi xì xào với nhau về những chuyến ra đi của bạn bè nhiều hơn là thảo luận Chủ Nghĩa Marxist, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng tôi vui với nhau khi nghe chuyến vượt biên của một đứa bạn thành công, hoặc cầu nguyện cùng nhau khi nghe một đứa bạn mất tích trong chuyến hải hành của nó. Lâu lâu, trong lớp tôi lại vắng bóng một đứa học trò mà không rõ ly’ do. Nhưng chỉ sau một tuần, chúng tôi có thể kết luận chắc như đinh đóng cột rằng: “Nó dã đi vượt biên rồi”. Rồi một tháng sau, cô giáo hay thầy giáo chúng tôi lại “buồn rầu”, “long trọng” báo tin cho đám học trò biết rằng: “Em X sẽ không đến lớp nữa.” Đám học trò lại hùa nhau đồn thổi tin tức vượt biển thành công hay mất tích của đứa bạn. “Hôm nay còn đây, mai đã ra đi” trở thành một hiện tượng bình thường trong quãng đời học sinh của thế hệ chúng tôi.
Tin đồn thổi về những nạn nhân của Khờ me Đỏ bay đến tai chúng tôi ngày một nhiều, dẫu rằng chính quyền ra sức che giấu. Không một tờ báo chính thức nào của nhà nước thông báo tin người dân Việt Nam đang bị bọn Khơ-me đỏ giết hại tàn bạo bên kia bên giới. Xác chết thả trôi trên hồ Tông-Lê-Sáp, trôi theo dòng Cửu Long về đến Việt Nam. Cho đến khi chiến tranh thật sự nổ ra ở dọc Tây Ninh, người dân mới giật mình hoảng sợ. Mùi tử khí của cuộc chiến hai mươi năm tương tàn chưa tan hết, lại đến cuộc chiến tranh giữa “những người đồng chí anh em quốc tế”.
Tôi không thể nào quên về một người bạn kể chuyện lúc anh làm nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia. Anh đã rưng rưng nước mắt khi kể về sự tàn ác của quân đội Khơ Me đỏ tàn sát dân Khơ Me cũng như dân Việt mà anh chứng kiến. Chúng tôi cùng sùi sụt theo lời kể của anh. Để rồi vài tháng sau, chúng tôi lại nhận tin anh hi sinh trên chiến trường Cam Bốt. Chúng tôi đã reo vui khi nghe Campuchia giải phóng, rồi lại nhức nhối khi nghe tin bạn mình đã bỏ mình trên đất bạn.
Những ai vào tuổi tôi, có lẽ sẽ chẳng quên về Sài Gòn với những ngày sôi động vào chiến dịch đổi tiền. Đồng tiền ngày hôm qua có thể mua được một chiếc xe Honda, ngày hôm sau không mua nổi một bó rau lang, rau muống. Thứ chiến dịch ăn cướp đó đã đẩy biết bao người lao đầu qua thành cửa sổ, chết tức tưởi vì của cải mình gom góp hàng chục năm, trong một đêm đã tan tành mây khói. Nhưng chính nhờ nó, qua bàn tay ảo thuật của những kẻ đẻ ra nền kinh tế đổi tiền đó, lại trôi vào trong túi của những người nắm giữ chức danh, quyền thế. Chỉ trong một đêm, hắn đang là một anh bộ đội chân mang dép râu, đầu đội mũ cối, hút thuốc rê nâu, bỗng chốc hóa thành một thứ quan viên giàu sụ. Trong cái tranh tối, tranh sáng của một thể chế kinh tế “vật đổi sao dời” đến chóng mặt kia, đạo đức xã hội chuẩn mực mà người Sài Gòn được thừa hưởng từ cha ông ngàn năm xây dựng, phút chốc biến thành thứ đạo đức lừa thầy, phản bạn, chém chúa, lộn chồng của một xã hội hỗn loạn, nhiễu nhương, khi ăn cướp trở thành một chính sách.
Vẻ đẹp Sài Gòn chỉ còn trong cổ tích.
Hồi ức Việt Nam của tôi là một mảng tranh buồn màu xám. Bởi khi tôi ra đi còn biết bao điều dang dở, méo mó ở sau lưng. Ngày ra đi, phía trước tôi là đường tương lai mờ mịt, sau lưng tôi là quá khứ tối tăm của một thế hệ bị quăng bên lề xã hội. Chúng tôi đã sống như thứ hình nhân câm nín, một thứ công dân hạng hai.Luôn luôn được nhắc nhở rằng hơi thở mà chúng tôi đang có được là nhờ ơn cách mạng khoan hồng. Thế hệ chúng tôi chỉ là lớp vỏ đệm của những biến cố lịch sử ở Việt Nam sau cuộc chiến “một mất một còn” giữa những người chung dòng máu Lạc.
Dẫu thế nào, tôi vẫn mơ có một ngày quê hương sẽ rũ bỏ hết những vết thương quá khứ. Những vết thương cần khép miệng để lành hẳn theo thời gian. Ta cần phải làm hòa với quá khứ để đi tiếp ở hiện tại và ở tương lai. Không chỉ thế hệ tôi, thế hệ trước tôi, thế hệ sau tôi, sẽ tiếp nối không còn ranh giới. Cái ranh giới: địch và ta sẽ không còn tồn tại. Cho dẫu lịch sử Việt đã ghi dấu đất nước bao lần chia cắt, nhưng người Việt Nam vẫn luôn hướng về nhau với tấm lòng sắt son: máu chảy, ruột mềm.
Gần bốn mươi năm kết thúc cuộc chiến tranh tương tàn lịch sử. Dấu vết chiến tranh đã không lại gì trên những vùng đất giao tranh xưa. Sự sống hồi sinh sau bao năm tháng người dân Việt phải vật lộn với cuộc mưu sinh. Có mấy ai nghĩ nhiều về những người đã nằm xuống. Có thể nào, chúng ta hi vọng một ngày, sẽ thấy một nơi chốn được dựng lên trên nền đất Việt, để con cháu Việt đời sau, được đến nơi, được tưởng nhớ, tri ân những người đã hy sinh trong cuộc chiến Việt Nam cho dẫu họ ở bên này hay bên kia chiến tuyến. Người ta không ai biết chắc có bao nhiêu người đã mất trong cuộc chiến này. Nhưng có một điều chắc chắn rằng, tất cả những con người đó chỉ hy sinh cho điều duy nhất: lòng yêu quê hương và sự trường tồn của dân tộc.