Thứ Sáu, 17 tháng 4, 2015

Vừa làm vừa run: Giữ chặt tiền trong túi là hơn

Vừa làm vừa run: Giữ chặt tiền trong túi là hơn
Tác giả: Trần Thủy – VEF – 16 April 2015
Các DN Việt vẫn ngày càng thu nhỏ về quy mô, năng suất lao động thấp, năng lực quản trị và đổi mới công nghệ yếu, năng lực tài chính kém và có tỷ lệ thua lỗ cao.
Ngày 15/4, Phòng Thương mại và Công nghiêp Việt Nam (VCCI) đã công bố Báo cáo thường niên DN Việt Nam năm 2014.
Tiếp tục thua lỗ và phá sản
Theo đó, mặc dù kinh tế đang trên đà phục hồi, nhưng DN vẫn gặp nhiều khó khăn. Số DN tạm ngừng hoạt động, giải thể vẫn cao. Năm 2014 có 67.823 nghìn DN tạm ngừng hoạt động, giải thể, con số này vẫn cao hơn so với 2011-2013.
Trong số đó có 9.501 giải thể, tuy có thấp hơn so với 9.818 DN của năm 2013 nhưng vẫn cao hơn so với các năm 2011 và 2012. Đặc biệt các DN nhỏ chiếm tới 93,57% số DN tạm ngừng hoạt động.
Nguyên nhân quan trọng khiến nhiều DN phải tạm ngừng hoạt động, giải thể là do không tìm được thị trường đầu ra và chi phí đầu vào tăng cao. Kết quả này cho thấy, 2014 vẫn tiếp tục là một năm khó khăn với các DN Việt Nam.
Qua khảo sát, cũng cho thấy chiếm tới 96% trong tổng số các DN là những DN siêu nhỏ, chỉ có 2% DN cỡ vừa và 2% DN lớn. Trong đó có đến 99% số DN siêu nhỏ thuộc khu vực ngoài Nhà nước. Lao động bình quân của DN đã giảm từ 49 người năm 2007 xuống còn 29 người vào năm 2014, trong đó, DN ngoài Nhà nước giảm từ 27 lao động, năm 2007 xuống còn 18 lao động năm 2014.
Dấu hiệu phục hồi của các DN rất chậm, năng suất lao động thấp, năng lực quản trị và đổi mới công nghệ kém. Đặc biệt DN nhỏ là đối tượng dễ bị tổn thương nhất. Các DN càng nhỏ thì năng lực tài chính càng yếu kém. Chỉ số khả năng chi trả lãi vay của DN không cao, chỉ số thanh toán hiện tại có xu hướng giảm từ 5,1 lần xuống còn 3,2 lần. Trong khi đó, tỷ lệ thua lỗ rất cao, trong giai đoạn 2007-2013 có đến 50,7% số DN siêu nhỏ thua lỗ, bản Báo cáo viết.
Đã nhỏ ngày càng siêu nhỏ
Theo ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VCCI, sau gần 30 năm đất nước mở cửa, hội nhập mà chỉ có 2% DN cỡ vừa là điều rất khó chấp nhận.
Thiếu vắng những DN cỡ vừa, hội chứng mà thế giới gọi là the missing middle, chính là lỗ hổng lớn nhất của nền kinh tế Việt Nam, là điểm yếu nhất trong khả năng cạnh tranh của cộng đồng DN Việt, ông Lộc khẳng định.
Theo các nhận định của VCCI, nguyên nhân DN Việt ngày càng nhỏ đi chủ yếu là do các thể chế hỗ trợ thị trường hoạt động kém hiệu quả. Khu vực tư nhân chưa bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực. Tiếp cận vốn đầu tư luôn là một cản trở cố hữu đối với DN nhỏ. Các DN nhỏ thường phải tiếp cận các nguồn vốn phi chính thức với lãi suất cao hơn nên không có lợi thế về chi phí. Ngoài ra, về nội tại của DN cũng còn nhiều yếu kém. Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu, tầm nhìn của lãnh đạo hạn hẹp, trình độ công nghệ còn thấp.
Trao đổi với VietNamNet, một số DN nhỏ cho biết họ rất muốn mở rộng sản xuất kinh doanh, nhưng lực bất tòng tâm.
Chủ một DN tư nhân sản xuất tủ, bàn ghế văn phòng tại Hoài Đức (Hà Nội) cho biết, năm qua dự định thuê thêm 5.000m2 đất, mở rộng nhà xưởng, tăng sản xuất kinh doanh. Song kế hoạch này phải gác lại bởi tính đi tính lại thấy không có hiệu quả. Ngoài tiền gia đình bỏ ra, DN này phải vay thêm 2 tỷ đồng để đầu tư cho sản xuất. Muốn vay 2 tỷ đồng, phải có tài sản thế chấp ngân hàng giá trị khoảng 3 tỷ đồng và lãi vay phải chịu là 10%/năm. Xét thấy khả năng của DN không thể đáp ứng được và sản xuất kinh doanh không có lợi nên lại thôi.
Nếu được ưu đãi vay với lãi suất thấp, được hỗ trợ đào tạo nâng cao năng lực quản lý hay tiếp cận thị trường… thì chắc chắn chúng tôi sẽ mở rộng quy mô, ít nhất là tạo việc làm thêm cho 15 lao động… Nhưng chúng tôi không nhận được những hỗ trợ cần thiết và cũng không biết tìm sự hỗ trợ đó ở đâu, ông chủ cơ sở cho biết.
Theo ông Vũ Tiến Lộc, để cải thiện tình trạng này, từng bước nâng quy mô DN, Chính phủ và các cơ quan chức năng có thể nghiên cứu ban hành Luật hỗ trợ DN nhỏ và vừa. Đồng thời tạo điều kiện cho khu vực tư nhân, tập trung đầu tư về mặt nguồn nhân lực, khoa học công nghệ và tài chính trong sản xuất. Cùng đó, khuyến khích DN FDI, DN lớn hỗ trợ các DN nhỏ và vừa tham gia mạng lưới vệ tinh công nghiệp hỗ trợ chuyển giao công nghệ, hướng dẫn, đào tạo…
Mặt khác, Chính phủ cần tăng cường hoạt động của Quỹ phát triển DN nhỏ và vừa, thông qua đó tạo nguồn vốn dài hạn, có lãi suất hợp lý cho các DN khu vực tư nhân đầu tư vào các ngành công nghiệp hỗ trợ, chuỗi giá trị ngành nông nghiệp. Đồng thời đẩy mạnh hoạt động của các Quỹ đầu tư tư nhân, Quỹ đầu tư mạo hiểm, thúc đẩy hoạt động mua bán, sáp nhập, tạo điều kiện hình thành các DN quy mô lớn.

Khi Vua Chúa Xài OPM

Công chúa Ả rập Saudi và cơn cuồng mua sắm (rồi lừa gạt) hàng hiệu nhiều triệu đôla
The Saudi Princess and the Multi-Million Dollar Shopping Spree
By James Reginato – Vanity Fair – April 7, 2015
Người dịch: Kevin Bùi
Công chúa Saudi Maha Bint Mohammed bin Ahmad al-Sudairi tìm cách xù khoảng 20 triệu USD nợ các cửa hiệu thời trang sang trọng nhất Paris và lờ đi hoá đơn khách sạn khoảng 7 triệu USD. James Reginato lần theo dấu của cô trong bài viết dưới đây.
Đó là một nước cờ cũ – lẻn ra khỏi khách sạn trong đêm khuya để tránh các hoá đơn. Nhưng có vẻ khó khăn một chút khi mà bạn có đoàn tuỳ tùng lên tới 60 người, một hoá đơn phải thanh toán lên tới 7 triệu USD, và một hàng dài các xe hạng sang và các loại xe khác đợi ở ngoài để đón bạn cũng như chở đi cả núi túi xách của bạn. Đó là tình huống xảy ra lúc 3:30 sáng ngày 31/5/2012 khi công chúa Maha bint Mohammed bin Ahmad al-Sudairi được cho biết là tìm cách bỏ trốn từ khách sạn 5 sao Shangri-La, ở quận 16, nơi cô và đoàn tuỳ tùng chiếm 41 phòng trong vòng 5 tháng. Sau một cuộc đối đầu căng thẳng đi kèm các cuộc gọi tới các nhà ngoại giao và quan chức cấp cao, bà được phép rời đi, chuyển tới khách sạn Royal Monceau gần đó, được sở hữu bởi Qatar, một láng giềng thân thiện của Saudi.
Có lẽ công chúa Maha nghĩ rằng bà có thể lẻn đi vì cũng ba năm trước đó tại Paris, theo báo chí, bà cũng suýt thành công trong việc tránh né trả 20 triệu USD sau cơn cuồng mua sắm lịch sử tại các cửa hiệu thời trang trên Đại lộ Montaigne, quảng trường Place Vendome và những nơi khác nữa. Đến khi phải trả tiền, công chúa Maha đã bỏ qua các phương thức thanh toán thông thường, thay vào đó để cho một tuỳ tùng trao cho bộ phận tính tiền một văn bản in nổi dòng chữ “Thanh toán sau” – một cách báo nợ (I.O.U) rất thời thượng. Tuy nhiên, đến một thời điểm nào đó, các chi phiếu bị ngừng lại. “Bà ấy là một khách hàng rất tuyệt vời trong vòng tám năm, nhưng rồi sau đó bà ấy chỉ đơn giản là ngừng trả tiền”, bà chủ cửa hàng đồ lót O Caprices de Lili cho báo chí biết vào tháng 6 năm 2009 khi bà chờ đợi để được trả số tiền gần 100 ngàn USD. Một chủ cửa hàng quần áo mặc ở nhà có tên gọi Key Largo tuyên bố rằng ông bị công chúa nợ số hàng hoá có giá trị lên tới gần 125 ngàn USD.
Thời gian cuối trong lần ở lại Paris năm 2009 – lần này ở khách sạn George V – có ít nhất một trong số 30 chủ nợ đã tới cắm trại nhiều ngày trong sảnh của khách sạn sang trọng này với hy vọng đòi được tiền, trước khi đệ đơn yêu cầu bồi thường. Bất kể hàng núi nợ này, lần ra đi của bà từ khách sạn này có vẻ không bị cản trở. Khách sạn này thuộc sở hữu của người anh em họ của bà, hoàng tử Alwaleed bin Talal (tổng tài sản 30 tỷ USD), và theo một số tờ báo, khoản nợ của bà được thanh toán bởi các quan chức thuộc đại sứ quán Saudi. Nhưng anh rể của bà, nhà vua Abdullah ( đã mất ngày 23 tháng 1 vừa qua), được biết là không vui vẻ gì về hành vi gây tai tiếng của công chúa Maha và trong lần trở về Saudi của bà, đã cho nhốt giữ bà tại gia.
Maha, ở độ tuổi 50, là vợ ba trong số ba bà vợ của Nayef bin Abdulaziz al- Saud. Cặp đôi này – cũng là anh em họ – đã chung sống với nhau tới ba thập kỷ cho tới khi chia tay. Họ có năm con chung, giờ đây có độ tuổi từ 22 tới 30. Vào năm 2009, Nayef (anh em cùng bố khác mẹ với nhà vua Abdullah) xếp thứ nhì trong danh sách kế thừa ngai vàng – và có những khoảng thời gian là người cai trị không chính thức của Saudi khi tình trạng sức khoẻ của cả nhà vua lẫn thái tử lúc đó, Sultan –anh ruột của Nayef – đều không tốt. Nayef được trao ngôi thái tử vào tháng 10 năm 2011 khi Sultan mất; vào đầu năm 2012 ông và Maha li dị. Ốm yếu vì bệnh tiểu đường, ông mất ngày 16 tháng 6 năm 2012, thọ 78 tuổi.
Vào tháng 12 năm 2011, Maha bất chấp chỉ dụ của hoàng gia và “thoát” trở lại Paris, theo tờ The Telegraph. Lần checkout phiền toái của bà tại khách sạn Shangri- La trùng với thời điểm mất của chồng cũ của bà, và theo một số người, cũng là khi bà mất hoàn toàn sự ưu ái từ vua Abdullah. “Nhà vua thực sự đã không chịu đựng nổi công chúa tại thời điểm đó – ông kệ bà muốn làm gì thì làm”, theo một phụ nữ Trung Đông sống tại châu Âu và biết công chúa.
Lần đòi tiền này của các nhà cung cấp còn khó khăn hơn nữa. Tháng 3 năm 2013, một thẩm phán ở Nanterre, phía Tây Paris, đã ra lệnh thu giữ hàng hoá trữ tại hai kho chứa hàng chất đầy số đồ mà bà Maha mua năm 2012, mang ra bán đấu giá để hoàn trả tiền cho các chủ nợ. Kho giấu đồ này được cho biết gồm quần áo, mũ, túi xách, đồ trang sức, các tác phẩm nghệ thuật, trang phục tắm, kính thời trang, thùng thuốc lá, các đĩa mạ vàng, khoảng một ngàn đôi giày phụ nữ, và một số bức ảnh đóng khung chân dung công chúa đội vương miện và đeo mặt nạ lễ hội.
Một trong số các chủ nợ là một công ty dịch vụ sang trọng đã cung cấp cho công chúa các tài xế và các xe sang – khoảng 30 chiếc mỗi ngày, bao gồm hai chiếc Rolls-Royce Phantom. Công ty này bị bỏ rơi với khoản nợ gần 400 ngàn USD, một quan chức của công ty cho phóng viên của tờ Người Paris. “ Chúng tôi chấp nhận rủi ro khi giao dịch với bà ấy, vì đó là một bản hợp đồng hấp dẫn, nhưng cuối cùng đó là thảm hoạ”, ông này cho biết. “Các thủ tục phải tuân theo để được hoàn lại tiền hiển nhiên là sẽ lâu, rất rất lâu”.
Do vậy, kết cục của chuyến đi thị sát gần đây của công chúa tới Paris khiến người ta tò mò. “Hoá đơn được thanh toán trong vòng 48 giờ” sau khi công chúa đi khỏi, một đại diện báo chí của Shangri-La cho biết. “ Chuyện này đã xong. Đây không phải là đề tài mà khách sạn muốn thảo luận”. “ Tất cả đều ổn”, theo lời người quản lý của Key Largo, cửa hàng đồ thể thao đã phải ra toà để đòi lại 125000 USD hồi năm 2009. “Hoá đơn đã được trả”.
Các cửa hiệu cũng rắc rối như chính vị khách Ả rập này, rõ ràng là không có ai muốn mất đi thị trường này. Paris từ lâu đã là điểm đến ưa chuộng của những người Ả rập giàu có. Họ tụ tập chủ yếu ở Quận Tám – nơi có các khu mua sắm cấp cao (như Đại lộ Montaigne). Có lẽ để ở gần với nơi mua sắm, các khách sạn được ưa thích của họ cũng ở quanh đó – George V hoặc Plaza Athénee (sở hữu bởi vua Brunei). “ Hiệu Ritz không là kiểu họ chuộng”, một quý bà có nhiều ảnh hưởng, bạn với gia đình hoàng gia và miêu tả thị hiếu thời trang Ả rập là hào nhoáng và dùng nhiều phụ kiện: “ Họ thích những thứ phô trương như Vuitton hay Chanel. Họ không phải là fan của Hermes. Anh không thể tưởng tượng được số giày mà họ mua đâu. Nhưng nếu anh có lúc nhìn thấy đế giày họ khi họ ngồi vắt chân, thì chúng lúc nào cũng mới. Đó là vì họ không bao giờ bước xuống đường cả”.
Giày dép, cũng như túi xách là loại mặt hàng được phụ nữ ưa chuộng nhất vì ở Ả rập, với bộ đồ che kín của phụ nữ, người khác chỉ nhìn được những phụ kiện này.
Theo những người Trung Đông thân thiết với công chúa Maha, khoản nợ của công chúa được trả – một cách bất đắc dĩ một lần nữa nhằm tránh tai tiếng cho gia đình – bởi một trong số những người anh em ruột của chồng cũ của bà, có thể là Salman, người kế vị ngai vàng từ nhà vua quá cố Abdullah từ tháng 1 năm 2015.
Trong khi đó, bản thân Maha lại bị nhốt tại gia một lần nữa – lần này giám sát chặt chẽ, cũng theo lời quý bà Trung Đông kia. “ Bà ấy không được rời khỏi đất nước một lần nữa”, bà nói thêm. (Các nỗ lực để liên lạc với công chúa Maha để bình luận về chuyện này đều không thành công).
Với vương triều al –Saud cai trị vương quốc Ả rập Saudi ( Xê-Ut) – nơi mà vua Abdulaziz (người sáng lập quốc gia vào năm 1932) có tới 45 con trai với ít nhất 22 bà vợ, có một sự khác biệt căn bản giữa anh em cùng bố khác mẹ với anh em ruột.
Salman và Nayef là hai trong số bảy con trai của vua Abdulaziz với bà vợ được sủng ái của ông, Hassa bint Ahmad al-Sudairi, thuộc gia tộc quyền lực Sudairi đến từ vùng cao nguyên trung phần Nejd của Saudi, cũng là nơi mà hệ tư tưởng Wahhabi chính thống nổi lên khoảng 300 năm trước. Theo một số nguồn tin, Hassa al-Sudairi có thể chỉ khoảng 13 tuổi khi bà được chọn để lấy vị vua tương lai. Sau vài năm, Abdulaziz ly hôn bà để lấy các bà vợ khác – đàn ông đạo Hồi chỉ được phép có cùng lúc bốn bà vợ tại mỗi thời điểm- nhưng ông cũng nhanh chóng kết hôn lại với bà. Họ có 12 con chung và chung sống với nhau cho tới khi ông qua đời vào năm 1953. Những người con trai của họ – được biết đến là Bảy người nhà Sudairi – hình thành một khối anh em ruột đông nhất trong gia đình hoàng gia và do vậy nắm giữ quyền lực khổng lồ. Nhà vua Abdullah (người không có anh em ruột nào) được cho là không ưa gì nhóm này và tìm cách giới hạn quyền lực của họ.
Nhưng với sự lên ngôi của Salman, người nhà Sudairi lại quay về vị trí đỉnh cao quyền lực. Một trong số 10 con trai của Nayef, hoàng tử Mohammed bin Nayef, 55 tuổi – con của Nayef với bà vợ thứ hai, Al Jawhara- mới đây được chọn là Phó Thái tử.
Tiền bạc vẫn chảy tràn trề trong đại gia đình hoàng gia. Vào tháng 5 năm 2013, con trai út của Maha, hoàng tử Fahd, khi đó 21 tuổi đã tổ chức bữa tiệc tốt nghiệp kéo dài 3 ngày tại công viên Disneyland Paris cùng 60 người bạn, với chi phí lên tới 20 triệu USD. (80 vũ công được thuê để tạo ra các màn trình diễn ngoạn mục, với khu Main Street hoá thành đại lộ Paris, còn công viên mở cửa từ sớm và đóng cửa muộn, tới 2 giờ sang chỉ để phục vụ cho bữa tiệc này. Hoàng tử cũng mời Mickey và Minnie đi cùng trên máy bay riêng của mình). Sự thừa thãi rõ ràng là truyền thống của gia đình hoàng gia.
Được xây dựng là cung điện cho hoàng tử Roland Bonaparte, cháu họ của Napoleon, Shangri-La là một trong số những khách sạn đắt đỏ nhất Paris. ( Giá phòng khởi điểm từ 750 USD, và các phòng hạng sang có thể lên tới 23000 USD cho một đêm). Kết hợp giữa phong cách Pháp cổ điển với nội thất sang trọng, hiện đại theo hướng tối giản, khách sạn này tự hào với dịch vụ tuyệt hảo của họ. Tuy nhiên những dịch vụ này hầu như vô ích đối với công chúa Maha, cho dù hoá đơn của bà lên tới 7 triệu USD. “ Bà ấy mang toàn bộ người của bà ấy theo”, cũng theo lời quý bà Trung Đông kia. “Từ lái xe cho tới hầu phòng, đầu bếp…”.
“Chúng tôi hầu như không bao giờ thấy bà ấy”, người gác cửa tại Shangri-La thì thầm. “Bà ấy sống về đêm. Bà ấy chỉ đi ra ngoài vào ban ngày vài lần trong suốt sáu tháng ở đây… Khi ấy bà ấy được bao bọc bởi khoảng 10 người hối hả đưa bà vào một trong những chiếc xe sang bên ngoài”. Theo một nguồn tin khác, người hầu của công chúa bao gồm cả bồi bàn, thợ cắt tóc, thư ký, vệ sĩ và đông đảo những người khác để khuân vác hành lý cho bà.
Lối sống về đêm như vậy là bình thường với cả giới giàu lẫn nghèo ở Ả rập Saudi, nơi mà ban ngày có thể nóng tới bỏng da. Bởi vậy, một số cửa hiệu sang trọng bậc nhất của Paris mở cửa tới khuya. Chẳng hạn cửa hiệu mang tính biểu tượng của Louis Vuitton ở đại lộ Champs- Elysees, được biết là đã mở lại vào lúc 2 giờ sáng chỉ để phục vụ công chúa. Có lúc trong khi mua sắm, bà muốn ăn và các gói hamburger ăn nhanh cũng được chuyển vào cho bà. (Dior, Dolce&Gabbana, Chaumet và Victoria Casal là một trong số các cửa hiệu hay được bà lui tới).
Dù rằng không nghi ngờ gì việc công chúa Maha là người nghiện mua sắm tầm cỡ thế giới, bà lại không phân biệt đối xử gì với các thương hiệu. “Bà ấy mua ở mọi nơi, từ Hermes cho tới Zara và tất cả các thương hiệu khác trong khoảng đó”, quý bà Trung Đông cho tôi biết.
Quả vậy, Key Largo, nơi bà để lại món nợ 125000 USD, là một cửa hàng thời trang giảm giá tại một khu mua sắm tồi tàn gần Trocadero, chuyên bán giày dép, đồ lót và đồ jeans hạ giá.
Bà hầu như càn quét sạch những gì gặp phải trên đường đi của mình, bất kể nơi nào. Theo quý bà Trung Đông, sau khi công chúa Maha đi thăm Geneva về, bà cần tới bốn chiếc xe tải để chở những gì bà mua về – bà thậm chí còn mua cả một chiếc Lamborghini và một chiếc Ferrari, dù rằng bà không lái xe (Phụ nữ không được phép lái xe ở Ả rập Saudi)
Theo quý bà Trung Đông, người tới thăm bà tại khách sạn, rất nhiều trong số hành lý của công chúa Maha chưa bao giờ được mở ra: “ Có bao nhiêu phòng chất đầy túi lẫn hộp. Nhìn chỗ nào cũng đầy túi với hộp, gần như tất cả đều chưa được mở”.
“ Khi tôi thấy bà ấy trong khách sạn, bà ấy chỉ mặc đồ pajama”, chứ không phải một trong số cả núi đồ bà đã tích luỹ. “ Và bà ấy đem theo năm tới sáu người chỉ để làm việc trong khu bếp, vì khu này cần sẵn sàng 24 giờ mỗi ngày”.
Mặc dầu được biết đến với sự vô cùng lãng phí của mình, công chúa Maha nổi bật như một người biết cảm thông một cách kỳ lạ khi bạn có cơ hội hiểu bà nhiều hơn.
“ Bà ấy có sự duyên dáng và ngọt ngào”, theo lời quý bà mà tôi nói chuyện với. “Nhưng bà ấy là một linh hồn lạc lối. Bà ấy thất học, anh biết đấy, người ta muốn kết hôn với những cô gái càng trẻ càng tốt. Và sau đó những người phụ nữ chẳng biết làm gì ngoài chuyện mua sắm. Điều này làm phụ nữ càng ngốc dại đi, và đó là vấn đề lớn với đất nước ấy – khi đàn ông quyết định mọi thứ”.
Là một người phụ nữ sống động, Maha được cho là đam mê âm nhạc, ca hát và yêu thơ ca, bà cũng thường thích làm thơ – toàn những thứ cấm kị trong văn hoá Wahhabi siêu bảo thủ của Ả rập Saudi. Và một trong những người thi hành trung thành nhất với văn hoá này chính là chồng bà.
Là bộ trưởng bộ nội vụ từ 1975, ông phụ trách cơ quan tình báo và an ninh của vương quốc, thậm chí nắm giữ phần lớn quyền điều khiển lực lượng cảnh sát tôn giáo của quốc gia này. Là một người bảo thủ không khoan nhượng, ông không chấp thuận những cải cách xã hội dù khiêm tốn của nhà vua Abdullah và được biết đến là người bỏ tù và xử tử những người Saudi chống chế độ, theo tác giả Karen Elliott House trong cuốn “ Bàn về Ả rập Saudi : Con người, Quá khứ, Tôn giáo, Các ranh giới và Tương lai”.
Tuy vậy, ít nhất là trong những năm đầu của cuộc hôn nhân với Maha, ông mê mẩn bà. “Ông ấy chiều chuộng, đam mê bà, trao cho bà ấy tất cả những gì bà ấy muốn”, theo lời kể của quý bà Trung Đông, người miêu tả ông ta như một “Kẻ thù của Chúa trời”.
“Ai mà lấy ông ta thì cũng sẽ phát điên”, bà này nói thêm.
Tới một thời điểm nào đó, cuộc hôn nhân bị vấp váp. Khoảng đầu những năm 2000, theo tờ tạp chí Le Nouvel Observateur của Pháp, có những lời đồn đại rằng bà thân thiết với một ca sỹ hát nhạc trữ tình của Saudi, Khalid Abdul Rahman. Được biết đến như “người tình của đêm“, ông được cho là đã phổ nhạc cho một số bài thơ của bà – việc gây tủi hổ tới cùng cực đối với định kiến tôn giáo của Saudi.
Phụ nữ Ả rập Saudi vẫn tiếp tục nằm trong số phụ nữ bị áp chế nhất trên thế giới. Họ hầu như không bao giờ được rời khỏi nhà nếu không có sự giám hộ của đàn ông. Thậm chí hoạt động chính mà những người phụ nữ giàu có được cho là được phép hưởng thụ – mua sắm – cũng rất bị hạn chế. Vì nhân viên bán hàng ở Ả rập Saudi đều là đàn ông, phụ nữ không thể thử quần áo trong cửa hiệu được, do vậy họ phải mang toàn bộ đồ đạc tới nhà vệ sinh của khu mua sắm, nơi được trông giữ bởi phụ nữ. “ Tôi đoán đây là điều khiến cho việc mua sắm quốc tế trở nên hấp dẫn với phụ nữ Saudi – khả năng được bình thường ở mức độ nào đó”, theo House – dù rằng “bình thường” có vẻ không phải là từ chính xác để miêu tả các cuộc thám hiểm mua sắm của công chúa Maha al-Sudairi. Với Salman giờ đây trị vì vương quốc, thậm chí còn có tin đồn là Maha có thể trở về từ trạng thái thất sủng và có thể được tự do như xưa. Hãy đợi đấy, Đại lộ Montaigne.

Đòn đau tỷ giá, xuất khẩu lao đao

Bảo Hân – VEF – 3 April 2015
Đồng Rúp và Euro mất giá liên tục đã ảnh hưởng trực tiếp tới tình hình sản xuất ở Việt Nam. Hàng hóa nông dân làm ra ùn ứ, tồn kho, giá giảm do lượng hàng xuất khẩu sang hai thị trường này giảm mạnh.
Chấp nhận lỗ hay chịu ế ẩm
Các chuyên gia kinh tế từng nhận định, lệnh cấm vận thương mại từ Mỹ và các nước châu Âu khiến nhiều mặt hàng trên thị trường Nga bị thiếu hụt và mức giá đã tăng lên đột biến. Chính vì vậy, Nga đã gia tăng tìm kiếm đối tác bù lấp lượng sụt giảm và đây là cơ hội đối với Việt Nam, nhất là với các mặt hàng nông, thủy sản. Nhiều ý kiến cũng cho rằng, đồng rúp mất giá không ảnh hưởng nhiều đến tình hình xuất khẩu nông sản của Việt Nam.
Song, thực tế lại hoàn toàn trái ngược. Theo đại diện Hiệp hội rau quả Việt Nam, hết quý I/2015, tình hình xuất khẩu rau quả đang có dấu hiệu chững lại. Một số mặt hàng xuất sang thị trường EU và Nga gặp khó và gần như không xuất được do đồng Euro và đồng Rúp mất giá.
“Một số khách hàng Nga đặt hàng dưa chuột từ cuối năm 2014 nhưng nay vẫn chưa nhận vì giá nhập về tăng gấp đôi, không bán được. Hiện ở miền Bắc còn tồn vài trăm container dưa chuột chế biến từ vụ đông năm ngoái”, vị này dẫn chứng.
Hiệp hội Cà phê Việt Nam cũng cho biết, ngành cà phê cũng đối mặt hai vấn đề: khoảng 20% diện tích cà phê ở Tây Nguyên sẽ mất trắng do hạn hán và kim ngạch xuất khẩu giảm mạnh
Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, nếu quý I/2014, xuất khẩu cà phê đạt gần 700.000 tấn thì quý I/2015 con số này chỉ còn một nửa, trên dưới 350.000 tấn. Giá cà phê đang trong thời điểm thấp nhất của tháng 12. Nguyên nhân là do giá dầu giảm, các đồng tiền khác mất giá kéo giá cà phê sụt giảm. Trong khi, EU lại nhập tới 38% lượng cà phê của Việt Nam.
Tương tự, ông Nguyễn Tôn Quyền, Phó chủ tịch Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam, phản ảnh, ngành gỗ cũng lao đao vì đồng Euro mất giá. Cụ thể, tháng 1/2015, tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ đạt 558 triệu USD, giảm 3,5%. Đến tháng 2, tình hình còn thê thảm hơn khi kim ngạch chỉ đạt 337 triệu USD, tháng 3 tăng được một chút nhưng không đáng kể. Giảm mạnh nhất là tại Hà Lan với 33%, Pháp giảm 27%, Anh giảm 5%,… chủ yếu là các sản phẩm bàn ghế ngoài trời.
Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), ước tính xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong quý I/2015 đạt khoảng 1,27 tỷ USD, giảm 23% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là mức giảm mạnh nhất trong vòng 5 năm trở lại đây. Đặc biệt, hai mặt hàng thủy sản chủ lực là tôm và cá tra đều giảm khá mạnh. Trong đó, xuất khẩu tôm chỉ đạt 349 triệu USD (giảm gần 30%), xuất khẩu cá tra đạt gần 225 triệu USD, giảm 18%.
Cũng theo VASEP, đồng tiền tại nhiều thị trường nhập khẩu, nhất là châu Âu, bị mất giá mạnh so với USD nên các công ty Việt Nam buộc phải giảm giá bán, khiến giá tôm và cá tra giảm mạnh.
“Doanh nghiệp Việt Nam hoặc phải giảm giá bán để đẩy hàng đi, hoặc chất hàng trong kho chờ giá lên. Nhưng biến động về tỷ giá còn kéo dài chứ không thể giải quyết trong vài tháng tới”, ông Dương Ngọc Minh, TGĐ Công ty Hùng Vương, nhận định.
Với ngành chè, ông Nguyễn Hữu Tài, Chủ tịch Hiệp hội chè, cũng lo lắng khi đồng Rúp trượt giá. Bởi, đối tác Nga ký hợp đồng với DN Việt bằng đồng đô la Mỹ, nhưng khi chè về nước họ thì tiền thu được là đồng Rúp. Việc đồng rúp mất giá do với đồng đô khiến nhiều DN e ngại thanh toán bị chậm trễ, nhiều công ty không muốn nhập hàng vì càng nhập càng lỗ.
Lối thoát nào cho xuất khẩu?
Trước tình hình trên, nhiều chuyên gia nhận định cần có những giải pháp cụ thể cho từng ngành, giúp doanh nghiệp đẩy được hàng đi, tránh để xảy ra tình trạng nông dân không bán được hàng mất sạch vốn.
Tại cuộc họp tháo gỡ khó khăn cho xuất khẩu nông thủy sản mới đây, do Bộ NN-PTNT tổ chức, đại diện VASEP kiến nghị nên giảm lãi suất ngắn hạn bởi DN đang phải vay với mức 7-8%. DN kinh doanh tốt mới vay được 5%.
Ngoài ra, nên tập trung các giải pháp làm sao để giảm giá thành sản phẩm, trong đó phải giảm được cước vận tải. Bởi, nếu tháng 8/2014 giá cước vận tải xuất khẩu đi Mỹ khoảng 2.300-2.400 USD/container thì hiện đã lên tới 3.900 USD.
Tương tự, Hiệp hội Rau quả Việt Nam cho rằng cước phí vận tải của Việt Nam luôn cao hơn so với các nước trong khu vực. Ví dụ, thời gian qua giá xăng dầu giảm mạnh nhưng cước vận tải không giảm, hoặc giảm không đáng kể. Một số DN vận tải chỉ giảm được 100.000 trên 5 triệu đồng.
Bên cạnh đó, phía ngân hàng cũng nên giảm lãi suất cho doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp chế biến, có như vậy hàng tồn kho của nông dân mới được giải quyết.
Trước tình hình trên, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Cao Đức Phát nhận định, tháo gỡ thị trường là giải pháp cấp bách đối với nông nghiệp. Để hoạt động xuất khẩu được thông suốt, Bộ quyết định thành lập Ban chỉ đạo liên quan đến xuất khẩu, trực thuộc Bộ. Đây là nơi tháo gỡ khó khăn vướng mắc của DN nhằm thúc đẩy xuất khẩu, tạo điều kiện cho nông dân sản xuất và tiêu thụ hàng hóa

Có Cần “Chính Trị” Khi Kinh Doanh Tại Việt Nam???

(Chú thích của GNA: GNA không có ý định đăng bài dưới đây của tác giả Phan Châu Thành. Lý do chính là ông già Alan không muốn nói nhiều quá đến “cái tôi đáng ghét”, nhất là trên GNA, mọi thảo luận thêm về chuyện Alan sẽ được coi như là bơm thổi PR quá đáng. Vả lại, chuyện thất bại của ông già Alan là chuyện nhỏ, từ tiền bạc đến cảm xúc, Alan không có ý thích nào để nhắc lại một trang sách cũ nhạt nhẽo trong chuỗi phi vụ đầu tư của mình. Tuy nhiên, cuối cùng GNA cho đăng bài này vì vài lý do:
- Tôn chỉ của GNA là đa dạng về góc nhìn để mọi BCA có dịp suy ngẫm;
- Nhiều Emails từ BCA yêu cầu đăng hay share bài này;
- Dù không quen biết, anh Phan Châu Thành là một tác giả mà Alan kính trọng vì những phân tích, bình giải về các inner workings (hoạt động hậu trường) của chính trị và kinh tế VN;
- Sau cùng, câu hỏi chính tác giả muốn truyền đạt là: một doanh nhân hay doanh nghiệp VN có thể thành công trong vị thế “phi chính trị” hay “không bè phái quan hệ” trng môi trường kinh doanh của VN hay không? Anh Thành nghĩ là không thể, riêng Alan thì vẫn giữ quan điểm là khả thi, dù rất khó khăn và ban quản lý phải rất khôn khéo.
Xin nhường lại các comments khác cho bạn đọc)
kinh doanh vn
BCA giải mã thất bại của Alan Phan ở Việt Nam
Phan Châu Thành – 4/4/2015
Tại sao tôi quan tâm đến ông già Alan
Hôm nay ghé GNA, đọc bài “Giải mã thất bại của Alan Phan ở Việt Nam” của chính ông già Alan nói chuyện với và ghi lại bởi Johnny Trần Quang, tôi thấy rầu rầu như đọc về thất bại của chính mình. Tôi đã nghĩ về điều này – thất bại của Alan ở Việt Nam – khá nhiều, đã từng công khai dự đoán (trong các khóa đào tạo kinh doanh của tôi) về nó trước khi nó xảy ra, nhưng sao tôi vẫn cứ buồn. Có lẽ như đa số người biết và quí trọng Alan Phan, tôi không hề muốn ông kinh doanh thất bại ở VN, chỉ mong ông thành công – dù tôi biết đó là điều không thể.
Nhiều năm nay, không nhớ từ khi nào, thường xuyên ghé thăm GNA vì tôi thấy mình gần gũi với những suy nghĩ của bác Alan Phan, tự coi mình là BCA thầm lặng, có thể vì cùng là những doanh nhân độc lập (với hệ thống và đội ngũ “doanh nhân” cộng sản) và cùng có nhiều cố gắng đào tạo và chia sẻ với các bạn trẻ Việt muốn trở thành doanh nhân (cũng độc lập và khác với cách đào tạo của các tổ chức của doanh nhân VN như VCCI…). Tôi đọc và quan tâm đến ông già Alan có lẽ còn vì nhiều học trò của tôi hay nhắc đến ông, hỏi tôi về những điều ông nói, và nói chúng tôi có phong cách gì đó giống nhau? Thay vì đến kết bạn ngay với Alan Phan để xem mình giống Alan Phan thật không, tôi lại chọn tìm hiểu và quan sát ông từ xa, và càng ngày tôi càng quí mến ông.
Trong các khóa giảng của mình, đôi khi tôi lấy Alan Phan như một hình mẫu doanh nhân đích thực của VN vốn rất hiếm hoi, mà người thứ hai thường thì tôi không tìm ra. Hàng năm VCCI chọn ra 100 “doanh nhân tiêu biểu” để trao các loại giải thưởng như “Sao vàng đất Việt” của họ, thì tôi cũng không thể nhìn ra trong số đó một doanh nhân đích thực, và tôi thường chỉ rõ cho học trò thấy lý do tại sao họ không phải là những doanh nhân – vì đa số họ kinh doanh bằng tiền của dân, không phải của họ, còn số ít kinh doanh bằng tiền của mình thì họ lại không có trái tim trung thực của doanh nhân…
Tóm lại, ông gìa Alan như một ngôi sao lạ “xẹt qua” bầu trời kinh doanh u ám của Việt Nam những năm 2005-2015, để lại cho rất nhiều người như tôi niềm quí mến, nhưng chính ông lại ghi nhận thêm một thất bại kinh đoanh, mất khoảng dăm năm và khoảng gần 2 triệu đôla, và tất nhiên là những cơ hội bị bỏ qua… Nhưng…có phải thế không?
Có thật ông già Alan Phan đã thất bại ở Việt Nam?
Khoảng từ 2006-2007 Alan Phan đã bị thuyết phục về VN làm duplicate công ty IT về phần mềm database cho các nhà đầu tư chứng khoán – như Sinobull đã khá thành công của ông ở Trung Quốc, ở VN sẽ là Vinabull. Doanh nhân Việt nào lại không muốn thành công ở VN, nhất là những người đã phải bỏ nước ra đi và thành công ở xứ người (Mỹ, Trung quốc…) như Alan Phan hay nhiều NVHN khác. Tôi đã từng quen biết nhiều Việt kiều như vậy, họ về VN khinh doanh với một tấm lòng hoài quốc nhiều hơn “hoài đô”, tức thường không nhất thiết vì kiếm tiền, mà chỉ vì được làm gì đó và làm được gì đó trên đất Việt – mà kinh doanh gì đó là điều họ biết… Có lẽ chính vì thể, đại đã số họ đều thất bại – ít nhất là đa số những người tôi biết. Và họ vẫn luôn ngẩng cao đầu kiểu như Nguyễn Thái Học: “không thành công thì cũng thành nhân!” Từ 1986 đến nay tôi quen và làm việc cùng với khá nhiều doanh nhân “Nguyễn Thái Học”- NVHN – từ Mỹ, Canada, Châu Âu…như thế.
Với Alan Phan, từ cuối 2008 thị trường chúng khoáng VN rơi xuống đáy, và Vinabull không gượng dậy được khi chưa kịp lên đến đỉnh cao nào, cho đến khi ông chấp nhận thất bại và rút về Mỹ.
Chính Alan Phan đã trả lời các câu hỏi của Johnny Trần Quang và sau đó đăng bài về thất bại của mình ở Việt Nam, trong đó ông rất khảng khái và quân tử nhận hầu thết trách nhiệm về mình – là “do thiếu sót của ban quản trị (mà ông đã chọn) và nhà đầu tư (là ông)”.
Nhưng sao tôi lại không thể đồng ý với ông về điều đó – thế tôi có “vô duyên” không? Làm sao tôi hiểu Vinabull hơn ông?! Thậm chí, tôi không đồng ý với Alan Phan về hai điểm quan trọng liên quan đến thất bại của ông ở Việt Nam. Và đó là lý do tôi viết bài này, không biết ông có cho post lên GNA không? (Đã một vài lần ông có đăng lại bài của tôi – PCT, trong mục BCA rồi đấy nhé…). Lần này tôi sẽ gửi thảng cho GNA, với tư cách BCA (tự nhận).
Thứ nhất, ông Alan tin rằng người Việt có thể kinh doanh phi chính trị ở VN?! (Là sai)
Tôi thấy lý do chính của thất bại của Alan ở Việt Nam, nếu có thất bại, thì đó không chỉ là do “thiếu sót của Ban quản trị (chưa đủ năng lực) và các nhà đầu tư (thiếu đam mê)” như ông nêu ra, mà trước hết do ông – nhà đầu tư đã đánh giá sai về môi trường đầu tư, và quyết định sai hoàn toàn ngay từ đầu. Đơn giản là ông dễ tin người Việt (CSVN) trong nước quá nên hiểu sai môi trường đầu tư, và đã quyết định đầu tư…sai – mặc dù ông luôn tỏ ra rất cảnh giác và đa nghi về những số liệu tài chính, kinh tế, thống kê của CSVN….
Những năm đó, đọc sách của ông, tìm hiểu cách kinh doanh của ông, tôi đã kết luận được là ông sẽ thất bại ở VN, và sẽ phải về lại Mỹ thôi. Tại sao tôi nói thế? Vì tôi thấy ông chưa thật hiểu những người đang cầm quyền chế độ, tức những kẻ đang điều khiển nền kinh tế VN này. Họ luôn “nói vậy mà không phải vậy”. Còn ông đã luôn cố tách ra và làm ngơ các vấn đề chính trị xã hội ra khỏi kinh doanh – trong từng lời nói, bài viết và có lẽ cả từng hành vi của ông, tưởng rằng như thế thì chính trị sẽ không ảnh hưởng đến việc kinh doanh của ông. Ông đã cố coi tất cả mọi người là bạn bè, trong đó có những nhà cầm quyền cộng sản, tưởng rằng như thế thì họ không phải kẻ thù cho việc kinh doanh của ông… Tôi tin ông làm điều đó với trái tim nhân hậu và ngây thơ, rằng ông chỉ muốn về làm kinh doanh với người Việt và sống (chia sẻ cách kinh doanh) với người Việt trên đất Việt mà thôi, ông sẽ hoàn toàn không làm gì, nói gì chống đối chế độ cả (có thể chỉ phê phán nhẹ nhàng)…
Ông đại diện cho những giá trị và đức tính, cách sống, cách kinh doanh tốt đẹp nhất của một doanh nhân trung thực trong xã hội dân chủ, mà tôi gọi là Content/Nội dung của ông, nhưng ông không để ý (và cố tránh, cố lờ đi) cái Bối cảnh/Context (xã hội do cộng sản VN cai trị bằng lừa dối và bạo lực) mà ông muốn mang Nội dung trên của mình vào ứng dụng. Ông biết rõ là Context và Content đó đối chọi và phủ nhận nhau (hay cụ thể là Context cộng sản phủ nhận Content doanh nhân Alan Phan), nhưng ông “giải quyết” bằng cách lờ Context CS đi, cứ vui vẻ “sống chung với lũ” hy vọng lũ sẽ để mình – Content doanh nhân Alan Phan sống…
Nhưng ông đã lầm to. Đọc bài “Hiện tượng Phạm Thanh Bình” và nhiều bài khác của Alan thì thấy rõ ông không hiểu bản chất cộng sản VN chút nào. Có thể ông đã có 10 năm kinh doanh thành công trong môi trường cộng sản Tàu – nhưng ở đó ông là nhà tư bản từ Mỹ trong mắt CS Tàu chứ không phải là doanh nhân người Việt, còn về VN ông là “Việt kiều yêu nước” mà thôi, phải theo nghị quyết 36 của đảng CSVN chả hạn. Đối với CSVN, yêu nước cũng phải được họ cho phép và đúng cách, nhất là không ai được quyền yêu nước hơn cộng sản (mà khác tức là hơn rồi đấy)…, ví dụ vậy, nói gì đến kinh doanh.
Môi trường kinh doanh (của CSVN) ở VN hôm nay không chấp nhận những doanh nhân và cách kinh doanh chân chính như Alan Phan. Nếu Alan Phan muốn kinh doanh thành công ở VN, Alan Phan phải trở thành những “ranh nhân” như các nhà tư bản đỏ và lũ sân sau rửa tiền cho chúng – điều rõ ràng ông Alan vừa không thể làm, vừa không thể chấp nhận. Khả năng ông Alan thay đổi bối cảnh thì không cố – từ đầu ông đã chủ động chỉ cố chiều theo bối cảnh CS thôi. Thế nên ông thất bại là bình thường, và chắc chắn.
Bởi vì, Context luôn mạnh hơn Content, Bối cảnh luôn chiến thắng Nội dung. Nếu Context và Content không đồng nhất thì phải thay đổi Context trước đã, rồi mới đưa Content (tương ứng) vào đó.
(Bản thân tôi đã từng dành hàng hơn chục năm cố gắng mọi cách để “kinh doanh phi chính trị” như ông Alan, và thất bại, nên tôi mạnh dạn chia sẻ điều này).
Thứ hai, ông Alan Phan đã không hề thất bại ở Việt Nam
Vâng, đối với tôi, và rất nhiều người khác, ông Alan Phan đã không hề thất bại ở Việt Nam. Ngược lại, ông đã thành công, và thành công rất lớn, chưa một NVHN nào về nước kinh doanh và thành công như Alan Phan! Rồi người Việt sẽ còn vinh danh và cảm ơn Alan Phan rất nhiều – mà tôi, PCT, không phải người đầu tiên và càng không phải người cuối cùng tin như thế.
Dường như, sứ mệnh của ông Alan Phan sau mấy chục năm đã kinh doanh thành công ở xứ người, là về VN để giúp các doanh nhân trẻ học hỏi và tạo một hình ảnh doanh nhân Việt đích thực cho người Việt trong bối cảnh kinh tế định hướng XHCN của VN, thông qua các hoạt động phi kinh doanh của ông. Ông đã có rất nhiều cuộc hội thảo, buổi nói chuyện, gặp mắt hàng vạn danh nhân và các daonh nhân tương lai, đã viết hơn chục cuốn sách chỉ xoay quanh các vấn đề VN và kinh doanh là chính rất ám ảnh người Việt, và nhất là ông bỏ công sức thời gian cho trang blog nổi tiếng và rất giá trị nhiều mặt (kinh tế, xã hội, đào tạo,, van hoa…) là Góc Nhìn Alan… Tức là Alan đã một mình định hướng lại cả môi trường kinh doanh của CSVN hôm nay vậy. Đó là đóng góp cục kỳ to lớn của Alan Phan (so far) cho nền kinh tế VN hôm nay mà tôi và rất nhiều người Việt, các bạn trẻ Việt, rất trân trọng và đề cao, và cảm ơn thầm lặng nữa (vì dụ: tôi muốn lắm nhưng không làm được thế).
Giống như loài ong đi lấy mật hoa về nuôi mình nhưng chúng không hề biết sứ mệnh lớn lao của chúng đối với sựu sồng trên Trái đất là thụ phấn cho hoa giúp muôn loài thực vật kết quả đơm trái, sinh sôi phát triển và bảo tồn giống loài, rồi từ thực vật là nguồn thức ăn đầu tiên trong chuỗi thức ăn của muôn loài động vật mà sự sống sinh sôi… Mật hay phấn hoa của Alan Phan là công việc kinh doanh ở VN như công ty Vinabull, nhưng sứ mệnh của Alan Phan lại là góp phần gây dựng nên văn hóa kinh doanh và lớp doanh nhân VN mới phi cộng sản, hậu cộng sản… Chí có thế hệ doanh nhân đó mới có thể làm VN hóa rồng (sau thời cộng sản) mà thôi.
Sứ mệnh đó là tuân theo Law of Recession Effects – Định Luật Hiệu ứng Động. Định luật Hiệu ứng động phát biểu rằng, một vật trong chuyển động thì tác động lên vật khác cũng trong chuyển động theo hướng vuông góc với hướng chuyển động ban đầu.
Khi con ong đập cánh bay từ bông hoa này đến bông hoa khác để lấy mật, những cái vỗ cánh ấy đã thổi những hạt phấn hoa đã tách ra và rung rinh bay đi (theo hướng vuông góc với hướng bay của ong) vào nhụy hoa và làm hoa được thụ phấn… Khi Trái đất trong chuyển động của nó trong Vũ trụ chịu lực hút theo trọng lực của Mặt trời cũng đang trong chuyển động, thì tạo thành chuyển động xoay vòng quanh mặt trời (vuông góc với hướng của lực hút trọng trường và lực ly tâm)… Với các doanh nhân như Alan Phan, với mỗi người chúng ta nói chung, thì chuyển động đầu tiên là Nghề nghiệp hay sự nghiệp và chuyển động Recession “vuông góc” là Sứ mệnh, là Nghiệp, là Hiệu ứng Động Vĩnh cửu… Nghiệp của Alan là những việc “phụ” mà Alan Phan làm thêm khi kinh doanh ở VN như dạy học, nói chuyện, viết sách, chia sẻ, và sống như một doanh nhân (không tha hóa đỏ mình đi)…
Nghề nghiệp hay sự nghiệp thì kết thức theo đời người, nhưng Nghiệp hay Sứ mệnh thì tự động truyền tiếp vào những vòng sau, đến vĩnh cửu… Sứ mệnh của con người luôn luôn được tự động truyền cho các thế hệ sau.
Lần nữa: Tại sao tôi viết bài này?
Là vì các bạn thấy đấy, tôi không đồng ý với Alan Phan về đánh giá nguyên nhân thất bại (kinh doanh) của ông ở Việt Nam.
Nếu điều đó chỉ ảnh hưởng đến ông Alan, tức chả ảnh hưởng gì mấy, thì tôi sẽ không lên tiếng làm gì – vì ông Alan Phan đã rút ra bài học (để rút kinh nghiệm hoặc để tránh) rồi, đã bỏ qua và nghĩ đến chuyện khác, chuyện tiếp rồi. Doanh nhân là thế mà.
Nhưng với ông Alan Phan thì không thể đơn giản thế được, bởi vì cái Sứ mệnh mà ông không tự mang vào mà có như tôi nói ở trên, đánh giá của Alan Phan về “thất bại” của ông ở VN có thể gây ngộ nhận cho hàng ngàn bạn trẻ (như chính Johnny Quang) muốn nói gương Alan, rằng nếu họ làm theo Alan nhưng với Ban quản trị tránh được những thiếu sót của Vinabull (điều họ tin sẽ làm được) và nhà đầu tư sẽ đeo bám và đam mê hơn Alan (điều họ chắc chắn sẽ làm được), thì họ chắc chắn sẽ thành công ở VN? Rất tiếc rằng: Không! Đó là ngộ nhận chết người, ngộ nhận Yên Bái của các doanh nhân!
Quan điểm của tôi là, những ai muốn làm doanh nhân chân chính thôi, tức chỉ kinh doanh và không hề muốn thay đổi chính trị như Alan đã cố gắng làm, sẽ không thể thành công một cách chân chính ở VN được, vì bối cảnh chính trị không cho phép Alan và họ làm thế. Nếu họ “thành công”, họ đã bán linh hồn cho quỉ dữ, không còn là doanh nhân đích thực với nghĩa đúng và cao đẹp của từ Doanh nhân nữa.
Tại sao ư? Bởi nếu những NVHN như Alan Phan thành công, người Việt trong nước sẽ thấy rõ ngay những hình ảnh tương phản đối lập giữa họ với các “doanh nhân đỏ” đang “thành công” bằng tham nhũng và cướp phá đất nước – vậy ai là thành công đây? Đích thực phải là các doanh nhân đang “chủ đạo và định hướng” nền kinh tế chứ! Thế cho nên, mọi cách làm khác phải sai hoặc không được tồn tại trong bối cảnh kinh tế VN – có nhờ cả sự vô tình tiếp tay của cả xã hội đã bị băng hoại mọi mặt này nữa (là các đối tác, bạn hàng, khách hàng, nhân viên, các cơ quan quản lý… của chính những Vinabull), thế thôi. Như là công đân VN không được phép yêu nước hơn và khác các đảng viên CSVN vậy.
Có nghĩa là, dù doanh nhân Alan Phan không quan tấm đến chính trị (bề ngoài thôi) thì chính trị (dân chủ) vẫn định hình doanh nhân Alan Phan rồi. Và doanh nhân Alan Phan định hình lại bối cảnh, theo cách khác, theo Định luật Hiệu ứng Động hay Hiệu ứng Vĩnh cửu, tức là qua thực hiện Sứ mệnh hay cái Nghiệp doanh nhân của Alan Phan…
Với mọi doanh nhân đều thế, nên không thể nói doanh nhân nên tránh xa chính trị được đâu, bác Alan Phan ạ! Đó là chưa nói, doanh nhân tránh xa chính trị chỉ như đà điểu rúc đầu vào cát bỏng thôi – trong hoàn cảnh VN hiện nay thì đó vừa là tự sát vừa là trốn chạy Sứ mệnh của doanh nhân Việt với đất nước, với dân tộc Việt.
Phan Châu Thành