Thứ Sáu, 29 tháng 5, 2015

Phẩm hạnh và lòng tự tôn quốc gia

Phẩm hạnh và lòng tự tôn quốc gia
Tác giả: Kami – RFA – 28 May 2015
“Phẩm hạnh và lòng tự tôn quốc gia”là một khái niệm rất thiêng liêng nhưng cũng vô cùng gần gũi với mỗi người, song ở Việt nam còn ít người để ý và quan tâm. Vì ít người biết rằng, một khi phẩm giá của từng cá nhân được tôn trọng, tự khắc đất nước của mình sẽ giữ được sự tự tôn.
Khi có dịp đến các quốc gia trong khu vực, như Singapore, Malayxia, Thái lan và thậm chí cả Campuchia hay Lào thì không khó các bạn có thể gặp rất nhiều những người Việt bỏ quê hương xứ sở sang những miền đất ấy để kiếm ăn. Song qua ánh mắt của những người này, bạn dễ dàng thấy rằng họ thiếu một vẻ tự tin khi họ là người Việt nam. Những người Việt ở đó, họ làm rất nhiều nghề miễn là có tiền, có thể là buôn bán nhỏ, lao động làm thuê trong các ngành xây dựng, hay bán hàng thuê… Khó có thể biết rằng ở mỗi nơi đó có người Việt nam tất cả là bao nhiêu người, là hàng nghìn, hàng vạn hay nhiều vạn. Song chỉ biết là nhiều lắm, đi đâu cũng thấy, cũng biết qua giọng nói hay các biển hiệu ở các quán cũng như cửa hàng.
Thực ra, từ trước kia chứ chẳng phải bây giờ, chuyện người ta đi ra nước ngoài để kiếm việc làm hay đi làm thuê ở các nước giàu có là chuyện tương đối phổ biến ở các nước Đông Nam Á. Hầu hết các nước nghèo ở khu vực này như Myanmar, Campuchia, Lào, Philippines, Việt nam hay Indonexia thậm chí cả Thái lan một quốc gia được coi khá phát triển so với Việt nam đều có người đi làm thuê ở các nước khác. Tuy nhiên đa số lao động người Thái lan đi ra nước ngoài làm thuê là họ kén nghề làm việc, họ không làm những nghề đơn giản, lương thấp như các công dân các nước khác trong khu vực thường làm, ví dụ như như người giúp việc, trông trẻ…. Mà chủ yếu họ là những lao động có tay nghề, được nhà nước đào tạo tham gia lao động trong các lĩnh vực như nông nghiệp, xây dựng…
Sở dĩ có tình trạng như trên vì Thái lan là một nước thiếu rất nhiều lao động, hàng năm Thái lan phải thuê khoảng 4 triệu lao động phổ thông từ các nước Myanmar, Campuchia, Lào, Việt nam. Với mức lương tối thiểu cho một lao động phổ thông là 300 baht/ngày (tương đương 10$ Mỹ/ngày). Chính vì thế hầu như người Thái lan không chịu tham gia các công việc lao động nặng nhọc như đánh cá, xây dựng… mà theo họ những công việc đó để dành cho lao động từ các nước Myanmar, Campuchia.
Nếu hiểu, mọi người khi đã sinh ra thì phải bươn trải kiếm sống để tồn tại, và sinh tồn là bản năng của con người thì mọi chuyện sẽ là bình thường. Tuy vậy, trên cuộc đời này mỗi người cũng có mỗi hoàn cảnh khác nhau, cũng bởi vì họ có các cơ hội khác nhau, đó là điều người ta thường an ủi nhau cho rằng đó là số phận. Nếu nói như thế thì chuyện người ta đi đây, đi đó kể cả ra nước ngoài để kiếm sống thì cũng là chuyện bình thường không có gì đáng nói. Tuy vậy, trong một xã hội bất công, thiếu bình đẳng và nhà nước không quan tâm đến cuộc sống của dân chúng như ở Việt nam, thì điều đó hoàn toàn đúng như nó đã và đang xảy ra.
Gần đây người ta bảo, có một nghề hình như là độc quyền và trở nên rất nổi tiếng của các cô gái Việt nam thời bây giờ. Đó là nghề bán dâm hay còn gọi là nghề làm đĩ. Chuyện cánh đàn ông Việt nam khi đi ra nước ngoài du lịch hay công tác, trong những cuộc nhậu nhẹt hay trò chuyện vui vẻ, bạn thường được những người bản xứ giới thiệu một vài địa điểm ăn chơi nổi tiếng như Geyleng ở Singapore, Beach Club ở Kuala Lumpur, Patphong ở Bangkok… Đau lòng hơn là chuyện đó xảy ra cả ở Viêng chăn hay Pnompenh là những quốc gia kém phát triển hơn Việt nam, và bao giờ người ta cũng kèm theo câu quảng cáo “Ở đó con gái Việt nam nhiều, rẻ lắm tha hồ mà chọn”.
Mà đúng thế thật, phụ nữ Việt nam bây giờ đã trở thành là nhân lực chủ yếu cho kỹ nghệ tình dục ở khu vực Đông Nam Á. Bạn có thể dễ dàng gặp họ trong các phố du lịch đèn đỏ, trong các quán bar, pub… hay các tiệm massage , kể cả trong các quán ăn. Đó là các cô gái Việt nam ở độ tuổi 18-22, thậm chí chỉ là 15-16 tuổi nếu gặp ở Phnompenh hay Viengchan. Qua tiếp xúc để trò chuyện những cô gái trẻ và đẹp ấy, được biết họ là sinh ra và lớn lên ở những miền quê khác nhau ở Việt nam. Mỗi người với mỗi hoàn cảnh khác nhau, song họ có mục đích chung là kiếm tiền để nuôi bản thân và gia đình. Họ nói với chúng tôi rằng “Là con người, ai mà không muốn ở nhà với cha mẹ, anh em và bạn bè. Nhưng nếu ở Việt nam những người như chúng em biết làm gì để sống?”. Nghĩa là họ đã không còn sự lựa chọn khác.
Tất nhiên, là nhà báo thì phải biết chuyện “Đừng nghe ca ve kể chuyện, đừng nghe con nghiện trình bày”, song cá nhân tôi thích cách đánh giá về những người phụ nữ đó của nhà báo Tưởng Năng Tiến. Khi ông dẫn Nhà văn Alexander Solzhenitsyn, tác giả các cuốn “Quần đảo ngục tù” (the Gulag Archipelago) khi nhắc đến phụ nữ của nước Nga Xô viết, vào thời Stalin có viết rằng “Họ là những người mẹ, người chị đã tảo tần thương khó để giữ cho dân tộc này chưa đến nỗi bị diệt vong.”. Vì tôi nghĩ rằng, những con người đó họ không thể đánh mất đi bản tính chịu thương, chịu khó và thương chồng thương con của người phụ nữa Việt nam. Đồng thời tôi tin rằng, nếu ở Việt nam có một môi trường làm việc tốt, đồng lương kiếm đủ sống nuôi bản thân và gia đình, thì tin chắc rằng những người phụ nữ đó sẽ không còn phải bỏ nước ra đi để làm những nghề tủi nhục như vậy.
Ai đã từng đến Beach Club ở thủ đô Kuala Lumpur đều được giới thiệu rằng “Beach Club này rất nổi tiếng. Trước đây, toàn bộ là con gái Thái Lan làm việc. Sau đó, mấy cô Philippines sang thay thế và chiếm lĩnh. Vài năm gần đây, là đến lượt mấy cô Việt Nam đang làm chủ.”. Từ hiện tượng nói trên, câu hỏi được đặt ra một cách nghiêm túc là “Nguyên nhân do đâu, việc phụ nữ Việt nam ra nước ngoài để làm nghề bán dâm lại là chuyện hết sức phổ biến?” và “Ai là người phải chịu trách nhiệm về tình trạng này?”. Cũng như chuyện người Việt nam trở nên nổi tiếng trong việc ăn cắp hàng trong các siêu thị ở Nhật bản, ở Thái lan, ở Hàn quốc v.v…
Một điều ai cũng muốn biết là vì sao ở các nước khác, kể cả các nước nghèo hơn Việt nam nhưng công dân nước họ hầu như hoặc rất ít dính đến những việc xấu xa như vậy? Gần đây, nhà nước Indonesia đã cấm phụ nữ nước này ra nước ngoài làm nghề giúp việc để bảo vệ “phẩm hạnh và lòng tự tôn quốc gia”. Nên chăng VN cũng cần quan tâm để có các giải pháp tương tự.
Nhiều người viện dẫn câu “Đất lành chim đậu”, để biện minh cho hiện tượng người Việt nam di cư đi khắp bốn phương trời để kiếm sống, theo họ câu đó không chỉ để nói về loài chim mà để nhắc nhở con cháu của mình muốn sống tốt thì hãy cố kiếm một mảnh đất yên lành để sinh sống. Nhưng tôi vẫn tự hỏi, tại sao những người lãnh đạo nhà nước Việt nam trong nhiều chục năm qua vẫn không làm đúng trách nhiệm và bổn phận của một nhà nước tử tế, để biến Việt nam – một đất nước biển bạc, rừng vàng để trở thành một miền đất lành để cho không chỉ loài chim mà để cả tất cả những con dân nước Việt được trú ngụ yên ổn để làm ăn sinh sống? Để họ không phải bỏ nước ra đi để làm những nghề bị người ta coi rẻ như hiện nay.
Các nước trong khu vực đã lần lượt giải quyết xong và thành công vấn nạn này. Cách đây khoảng 20 năm, chuyện người Malayxia đã từng phải ồ ạt vào Thái lan để làm thuê thì nay đã ngược lại, khi kinh tế của Malayxia phát triển nhảy vọt thì người Thái lan (chủ yếu là người theo đạo Hồi) lại sang làm thuê ở Malayxia. Đồng thời tình hình phụ nữ Thái lan đi ra nước ngoài hành nghề mại dâm đã giảm đi rất nhiều. Có nghĩa là việc đó hoàn toàn có thể làm được và làm thành công nếu kinh tế Việt nam phát triển và nhà nước quan tâm chú ý đến những người này.
Đã đến lúc nhà nước Việt nam cần coi trọng vấn đề “phẩm hạnh và lòng tự tôn quốc gia” của người Việt nam để đề cao danh dự. Thiết nghĩ làm được việc đó thì mỗi người Việt nam sẽ tự tin và tự hào vì tôi là người Việt nam.

 

Chuyện Dài Bong Bóng Trung Quốc

 6 “nút thắt cổ chai” đang bóp nghẹt nền kinh tế Trung Quốc Tác Giả: Chuyên gia kinh tế Hà Thanh Liên (Trung Quốc) – 28 May 2015
Tăng trưởng kinh tế Trung Quốc đang chậm lại – các số liệu thực tế đã chỉ ra rất rõ ràng. Nhưng để xây dựng một nền kinh tế lành mạnh, rất nhiều trở ngại lớn mà Trung Quốc đang phải đối mặt không phải lúc nào cũng dễ nhận biết. Một chuyên gia kinh tế nổi tiếng người Trung Quốc đang sinh sống tại Hoa Kỳ đã xác định 6 vấn đề có thể chấm dứt sự tăng trưởng kinh tế của nước này.
Phát biểu tại một diễn đàn được tổ chức bởi Tập đoàn Tài chính Shenglin tại Vancouver vào ngày 3/5, chuyên gia kinh tế Hà Thanh Liên cho biết có 6 “nút thắt cổ chai” chính – trong đó chỉ cần 3 yếu tố là có thể lật đổ một đảng ở một nước dân chủ – có thể có tác động mạnh mẽ tới tương lai của Trung Quốc nếu nó không được giải quyết, bà cho hay. Sau đây là nội dung bài phân tích đã được chỉnh sửa và rút gọn lại của bà.
Đánh mất vị thế “công xưởng của thế giới”
Cái gì đi lên thì đều phải đi xuống: Sự bùng nổ của lĩnh vực sản xuất tại Trung Quốc, được thúc đẩy từ năm 2001 đến năm 2010 với một cái giá phải trả khổng lồ đối với hệ sinh thái và người dân của nước này, đang không ngừng suy giảm.
Thành phố Đông Quan, một thành phố công nghiệp quan trọng thuộc tỉnh phía nam Trung Quốc – Quảng Châu, đang trải qua làn sóng sụp đổ doanh nghiệp thứ hai – ít nhất 4.000 doanh nghiệp đã ngừng hoạt động vào năm ngoái. Từ năm 2008 đến 2012, dữ liệu chính thức cho thấy 72.000 doanh nghiệp đã bị đóng cửa.
Hơn nữa, 3 đầu tàu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Trung Quốc – đầu tư, ngoại thương, và nhu cầu nội địa – gần như đã sụp đổ, có thể thấy từ sự suy giảm 15% của cán cân thương mại trong quý 1 năm nay so với cùng kỳ năm ngoái.
Bất động sản đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong 20 năm qua. Chính quyền và các doanh nghiệp đã liên kết với nhau để ngăn chặn sự sụp đổ của thị trường nhà đất, nhưng vài chục ngành công nghiệp thượng nguồn và hạ nguồn của lĩnh vực bất động sản đã rơi vào tình trạng dư thừa sản suất từ năm 2013. Tình trạng dư thừa sản phẩm được mô tả như là một “mối đe dọa hạt nhân” đối với nền kinh tế Trung Quốc, vốn có thể dẫn tới một cuộc khủng hoảng kinh tế bất cứ lúc nào.
Những vấn đề này cho thấy việc tái cơ cấu nền kinh tế của Trung Quốc là vô vọng. Cái gọi là điều chỉnh cơ cấu kinh tế không thể giải quyết mọi thứ như chính quyền Trung Quốc kỳ vọng. Ngay từ năm 2005, tỉnh Quảng Đông đã bắt đầu thay thế các ngành công nghiệp thâm dụng lao động bằng các ngành công nghiệp công nghệ cao. Kết quả là ngành công nghiệp sản xuất đã chuyển dịch khỏi Đồng bằng Châu Giang.
Số lao động thất nghiệp lớn
Tỷ lệ thất nghiệp chính thức, chiếm khoảng 4,5% tổng số lao động Trung Quốc, là không chính xác, bởi vì con số này chỉ bao gồm những người đã đăng ký với chính quyền địa phương trong khi chưa tính đến số nông dân thất nghiệp vốn mới là thành phần đóng góp chính vào lực lượng lao động.
Ở Trung Quốc hiện nay, những người thất nghiệp có thể được chia thành bốn nhóm: lao động nông nghiệp dư thừa do quá trình chuyển dịch đảo ngược (ví dụ, về quê) khi các nhà máy đóng cửa; nhóm lao động thành thị cổ cồn trắng bị mất việc do sự rút vốn của nước ngoài; sinh viên bỏ học giữa chừng; và học sinh trung học thôi học.
Cựu Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo đã ước tính số người thất nghiệp đứng ở mức 200 triệu người vào tháng 3/2010. Tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới ở Davos tháng 3 vừa qua, cựu Phó chủ tịch Ngân hàng Thế giới (WB) – ông Justin Lin cho biết có 124 triệu công nhân Trung Quốc tại các nhà máy đang muốn chuyển sang các nước đang phát triển khác để tìm kiếm mức lương cao hơn.
Với 940 triệu người trong độ tuổi lao động ở Trung Quốc hiện nay, một khi có 300 triệu người thất nghiệp thì tỷ lệ thất nghiệp thực tế là tương đương với 32% – gấp 7 lần so với con số dự kiến chính thức.
Khủng hoảng tài nguyên
Sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đã làm cho nguồn nước, đất đai và không khí ô nhiễm như một sự cảnh tỉnh – một điều gì đó sẽ quay trở lại ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong tương lai và gia tăng sự phụ thuộc vào nguồn lực nước ngoài.
Không phải là Trung Quốc không được dựa vào các nguồn lực nước ngoài để thúc đẩy nền kinh tế – nước này nhập khẩu hơn 60% lượng dầu tiêu thụ của mình, và phụ thuộc nặng nề vào nhập khẩu sắt, đồng, kẽm cũng như các loại quặng kim loại khác.
Lượng lương thực tự cung cấp của Trung Quốc đạt 87% – các mặt hàng chủ lực như đậu nành, ngô và lúa mì đều phải nhập khẩu. Viễn cảnh về tình hình sản xuất lương thực của Trung Quốc trong tương lai là có gần 200 triệu người sẽ phải dựa vào nguồn lương thực nhập khẩu.
Bất kỳ biến động về giá ngũ cốc của Trung Quốc đều sẽ ảnh hưởng tới giá cả thị trường quốc tế, và bất kỳ thảm họa tự nhiên hay chiến tranh tại một đất nước sản xuất ngũ gốc sẽ làm giảm nguồn cung và khiến giá ngũ cốc tại Trung Quốc tăng lên.
Không phải là chính quyền Trung Quốc không nhận được cảnh báo về các vấn đề lương thực. Trong cuốn sách của Lester Brown, “Who Will Feed China”, (Tạm dịch: Ai sẽ cung cấp lương thực cho Trung Quốc), chuyên gia phân tích môi trường này đã từng cảnh báo chính quyền Trung Quốc từ cách đây 20 năm rằng họ sẽ phải đối mặt với tình trạng khan hiếm lương thực. Nhưng chính quyền Trung Quốc nói báo cáo này là một âm mưu của “các thế lực chống đối Trung Quốc”.
Nợ của chính quyền địa phương đang tăng dần
Công ty tư vấn McKinsey & Company đã công bố vào ngày 8/5 rằng tổng nợ của Trung Quốc đã ở mức 282% tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Hầu hết khoản nợ này được tạo thành từ nợ của chính phủ và doanh nghiệp – nợ cá nhân chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong đó.
Nợ của chính quyền địa phương chiếm tỷ lệ lớn nhất, với giá trị ước tính vào khoảng 20 nghìn tỷ nhân dân tệ. Con số nợ của Trung Quốc đã liên tục bị báo cáo thiếu – trong khi quan chức của Ủy ban Phát triển và Cải cách Quốc gia, ông Li Tie thừa nhận rằng con số chính thức 18 nghìn tỷ nhân dân tệ là ít hơn một nửa so với số nợ thực tế. Các cuộc điều tra cho thấy hầu hết các chính quyền địa phương đều chỉ báo cáo từ 10% đến 30% số nợ thực tế của họ, nghĩa là con số thực tế cao hơn một cách đáng kể.
Khủng hoảng tài chính tiềm tàng
Các khoản nợ, tỷ lệ vỡ nợ gia tăng, và thặng dư thanh khoản lớn do các chính sách của ngân hàng trung ương có thể dẫn tới một cuộc khủng hoảng tài chính.
Trung Quốc hiện đang trải qua giai đoạn đỉnh điểm của các khoản nợ xấu lần thứ 3 do thị trường bất động sản gây ra. Lần thứ nhất diễn ra vào thời kỳ Chu Dung Cơ khi khoản nợ 170 tỷ USD đã phải mất tới 6 năm để trả hết. Cuộc khủng hoảng thứ 2 là vào giữa những năm 2000, và đã được gánh bớt bởi các ngân hàng nước ngoài. Nhưng sự tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc đã được thúc đẩy bởi một nguồn cung tiền mới được in liên tục trong nhiều năm qua, và với lượng tăng cung tiền quá lớn, dư thừa thanh khoản có thể bắt đầu trở thành một vấn đề nghiêm trọng. Điều này nổi bật trong những tháng gần đây với sự bùng nổ của thị trường chứng khoán khi thị trường này được sử dụng như một kho chứa vốn dư thừa – một chính sách tất yếu không bền vững.
Chênh lệch thu nhập
Bất bình đẳng ở Trung Quốc đã đạt mức kỷ lục trong vòng 20 năm qua do sự phớt lờ của chính quyền và các doanh nghiệp. Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Xã hội Trung Quốc của Đại học Bắc Kinh đã công bố một nghiên cứu vào năm 2014, cho thấy hệ số Gini của Trung Quốc đã đạt 0,73 vào năm 2012 – điều này có nghĩa là 1% các hộ gia đình giàu có nhất Trung Quốc đã nắm hơn 1/3 lượng của cải của cả quốc gia, trong khi 25% các hộ gia đình nghèo nhất chỉ có 1% số tài sản quốc gia.
Gần 60% người dân Trung Quốc là người nghèo, một tình trạng bất ổn đủ để gây ra sự mất ổn định xã hội.
(Thu Hiền biên dịch theo bản chỉnh sửa của Đại Kỷ Nguyên tiếng Anh)