Thứ Hai, 4 tháng 5, 2015

Kinh Tế và Chính Trị Xứ Lạ

Nguồn : Vững Đại Phát 
Kinh Tế và Chính Trị Xứ Lạ
Alan Phan
1 May 2015
Dù Mỹ không có ngày lễ vào 30/4 hay 1/5, các đối tác từ châu Á của tôi đều quay về nhà, cho tôi chút thảnh thơi bất ngờ từ hôm nay. Thật thú vị khi buổi sáng mùa xuân, nắng ấm lên, ngồi ăn sáng ở ban công, nhìn thiên nhiên rộng rãi bao dung quanh mình. Lá lại trổi xanh, những cánh hoa magnolia đã rụng hết, thay vào là những hàng cây phượng tím, bàng bạc ký ức về tình yêu học trò. Chỉ những khoảnh khắc khi tâm hồn có dịp chùng xuống, trong yên tĩnh, mới thấy đời đẹp đến thế nào.
Có lẽ các bạn BCA cũng đã nhiều lần tận hưởng những ân phúc “miễn phí” này, khi quyền lực, danh vọng, tài sản, ham muốn…đều tạm biến vào hư không, cho chúng ta “sống” thực với con người của mình.
Tuy vậy, hạnh phúc lúc nào cũng chóng qua. Quay về bàn làm việc, trả lời các Emails cần thiết, liếc qua những tin “xe cán chó” trên những trang mạng Mỹ, Việt….tự nhủ sao thiên hạ có nhiều thì giờ để quan tâm đến các rác rưởi này nhỉ? Rồi đọc những comments trên GNA, Facebook…đôi khi bật cười với những ấu trĩ của các ngài Dư Luận Viên. Hơi ngạc nhiên vì nghe nói nhà nước đang thiếu hụt ngân sách, không biết tiền đâu lại moi ra để gia tăng số lượng Dư Luận Viên? Trung Quốc có đạo binh hơn 400 ngàn chiến sĩ mạng, Việt Nam chắc cũng có hơn 50 ngàn? Đủ thành lập vài sư đoàn bảo vệ Trường Sa thay vì trả lương để các bạn trẻ này chém gió trên mạng?
Những phản hồi của các bạn này thường rất dễ đoán: copy và paste các khẩu hiệu, tuyên truyền…từ báo Nhân Dân nên không liên quan gì đến đề tài thảo luận; mỗi comments phải gồm vài chữ “phản động”; yêu nước là phải yêu đảng, yêu Trung Quốc; và lời khuyên thú vị là “ông già Alan” chỉ nên viết hay cho đăng những bài về kinh tế (theo họ, ở Việt Nam, chính trị và quyền lực hành xử rất độc lập với mọi diễn biến của xã hội…?).
Tôi nhớ có đọc một cuốn sách về nghệ thuật tuyên truyền của Cộng Sản Trung Quốc, trong đó Mao Chủ Tịch có vài hướng dẫn cho ban Tuyên Giáo Trung Quốc, đại khái là các đồng chí phải luôn luôn kèm theo những ví dụ sống thực trong những tiểu luận về chính trị về kẻ thù. Không có chuyện thì cứ “bịa” ra, nói chung chung, đừng ghi rõ chi tiết hay thời điểm địa danh (không ai kiểm chứng được). Miễn là ví dụ phải kích động tâm lý quần chúng, gây xúc cảm cao độ. Lập đi lập lại liên tục năm này qua tháng nọ, mọi lời nói dối ngu xuẩn nhất cũng đều trở thành sự thực….
Thực ra, chắc Mao cũng chỉ học phương thức tuyên truyền từ Goebbels của Đức Quốc Xã; hay từ các đàn anh Liên Xô trước đó. Câu diễu nhạo thịnh hành thời đó là Liên Xô có 2 tờ báo : Pravda (Sự Thật) và Izvestia (Tin Tức). Pravda thì không bao giờ có tin tức và Izvestia thì không bao giờ có sự thật.
Ngoài ra, các bạn Dư Luận Viên còn phải hiểu tâm lý là ông già Alan cũng như các đối tượng đánh đấm của các bạn khá bướng bỉnh; luôn luôn làm ngược lại những lời khuyên hay khích tướng.
Nhưng thực ra, có nhiều lý do để tôi không muốn viết về kinh tế Việt Nam:
- Tôi hoàn toàn không tin vào những số liệu từ thống kê hay từ các tài liệu biên soạn (đúng ra là sáng tác) từ các bộ ngành hay doanh nghiệp công, tư. Phần lớn vận hành kinh tế toàn cầu hiện nay đều dựa trên “số liệu” và nếu một bác sĩ biết kết quả thử máu của bệnh nhân là ngụy tạo, thì ông không ngu dại gì để chẩn bệnh hay điều trị.
- Ngoài số liệu, các doanh nhân hay chuyên viên còn dựa dự đoán trên những quyết định của chính quyền và trên trào lưu thay đổi về nhu cầu của thị trường. Hai yếu tố cần: hệ thống chính trị phải “mở” và “kết” với sự tham gia của nhiều nhóm ảnh hưởng; và người tiêu dùng phải có đầy đủ phương tiện và khả năng để thay đổi nhu cầu. Đây là 2 yếu tố không có ớ Việt Nam.
- Mặc cho bao nhiêu tuyên cáo, khuyến nghị, bàn luận…về tái cấu trúc kinh tế (hay chính trị), cơ chế quyền lực và hệ thống ban phát bổng lộc cho phe nhóm…không bao giờ thay đổi; ngay cả sau thời “mở cửa” để cứu nguy. Tôi không tin là nền kinh tế chỉ huy có thể cạnh tranh trong môi trường tự do liên thông của thị trường toàn cầu. Và tôi không nghĩ là nhà cầm quyền muốn thay đổi điều gì trừ khi sự “sống còn” bị đe dọa.
- Hiện giờ, các doanh nghiệp FDI chiếm đến gần 70% của xuất khẩu cũng như tổng lượng sản xuất của Việt Nam. Sự lệ thuộc này sẽ gia tăng thêm khi các hiệp thương tự do (free trade agreements) như TPP, AFTA với Asean, EAEC với Nga, EU, Korean…bắt đầu thực hiện. Phần còn lại của miếng bánh, 30%, thì đã có các tư bản thân hữu và doanh nghiệp nhà nước chia nhau. Cho nên, phân khúc tư nhân sẽ nhỏ hẹp và co cụm không đáng kể trong bức tranh tổng thể. Nếu phân tích hướng đi của kinh tế Việt Nam, chúng ta sẽ có một kết quả chính xác hơn nếu nghiên khảo đào sâu vào khuynh hướng phát triển của FDI, hay tư bản đỏ hay doanh nghiệp nhà nước.
- Thực ra, nhiều đọc giả của GNA cũng không mấy quan tâm đến kinh tế hay chính trị vĩ mô. Những bài viết về kinh tế hấp dẫn với họ là những dự đoán về giá cả chứng khoán, bất động sản, vàng, cách kiếm tiền nhanh vả gọn nhất ….Tôi không phải là chuyên gia về các lĩnh vực này, nhất là sau khi đã mất tiền liên tục ở Việt Nam.
Trên 2 sàn chứng khoán, người kiếm tiền phải là “insider” và dĩ nhiên các đội lái tàu không đăng “quảng cáo”. Bất động sản thì nhiêu khê vì quá nhiều phân khúc và sản phẩm, trong đó yếu tố “địa phương” mang tầm quan trọng nhất. Tôi chỉ biết cảnh báo người mua hãy coi chừng các đồn thổi, đầu cơ và nợ cao…Nếu có khởi nghiệp, các bạn trẻ nên giới hạn mục tiêu ở Việt Nam rồi tìm cách nhân rộng “business model” ra các nước lân cận hay Âu, Mỹ, Úc.
&&&&&&
Nếu nói chuyện kinh tế không được thì phải lảm nhảm về đề tài gì nhỉ? Chuyện thú vị trong tuần rồi là một học sinh 11 tuổi ở Maryland đã sửa lưng TT Obama trong cuộc gặp tại lớp học của em. Trước các bạn học và mạng truyền thông quốc tế, chú bé Osman đã ngắt lời Obama vài lần và ông Obama phải gãi đầu,” có lẽ tôi nói hơi nhiều”. Trong 85 năm qua, tôi cũng rất mong đợi một cậu bé nào biết bảo các ông già “lãnh tụ”, hãy “shut up”.
Một anh bạn trong nhóm Newport Country Club ghé ngang mời đi ăn trưa. Gia tộc anh là người Mỹ đi trên thuyền Mayflower (nhóm tị nạn Âu khai phá Mỹ quốc). Giàu có, thuộc cánh bảo thủ đảng Cộng Hòa, ghét Obama. Trước khi đi, ông hí hửng,” Mày có đọc về chuyện ông TT Việt Nam vừa chửi Mỹ là dã man, phạm bao nhiêu tội ác ở Việt nam không? Việt Nam chỉ biết có Trung Quốc là ân nhân trong mọi tình huống? Đúng là một cái tát vào mặt Obama, vào cái pivot quay về châu Á của ông Tổng Thống và bọn liberals ngây thơ của đảng Dân Chủ. Tao đã nói, Mỹ chỉ nên làm ăn trực tiếp với Trung Quốc, 2 bên phải là đồng minh chiến lược về business. Tránh khiêu khích Trung Quốc và hãy để họ giải quyết các đàn em quanh xứ họ”.
Bữa ăn trưa bây giờ có thể hào hứng hơn vì tôi đang chuẩn bị một tranh luận với anh bạn này. Ít nhất nó sẽ không buồn tẻ như nói chuyện kinh tế Việt Nam với một doanh nhân tử tế.
Alan Phan

Nghề Bồi Bút

Nguồn : Vững Đại Phát 
Nghĩ về chuyện cầm bút và bồi bút
Tác Giả: VietTuSaiGon – RFA – 3 May 2015
Trong vài ngày trở lại đây, kể từ khi lễ kỉ niệm “40 năm giải phóng miền nam” bắt đầu rục rịch cho đến khi nó kết thúc, rồi sang ngày Báo Chí Thế Giới, báo chí ở Việt Nam xuất hiện khá nhiều nhân vật “gương mẫu”, tiêu biểu, từ các đồng chí cựu chiến binh xuất hiện trên truyền hình với những chuyện xuất thần cho đến các đồng chí xuất hiện trên báo, nếu không xuất thần thì cũng xuất chúng, nói chung là xuất…!
Câu chuyện đầu tiên phải nói đến đồng chí Lái, một cựu quân nhân Bắc Việt, từng có thành tích đang bị thương nhưng thấy địch tới, liền xé vải băng vết thương ngay tức thời và nhờ một đồng chí trinh sát kéo giùm khẩu 37mm Canon tới để tiếp tục chiến đấu.
Cái hay ở chỗ loại súng này phải được một tổ tám người nam và mười đến mười hai nữ thanh niên xung phong vừa hè vừa kéo theo từng nhịp mới có thể di chuyển được bởi nó có trọng lượng trên 2000kg khi đứng không và có thể lên đến trên 2500kg khi mang cơ số đạn bên mình nó. Vậy mà một đồng chí trinh sát đã nhanh chóng kéo bốn khẩu lại vị trí chiến đẩu để đồng chí Lái cho “nổ”. Kết quả là có mấy tên địch nữa đi toi!
Chuyện này khá buồn cười bởi nó không thể có thật, người ta nổ đến mức một ông lính Cộng sản có thể ngang với thần thánh, trong phút chốc làm Phù Đổng Thiên Vương. Nhưng thời đại bây giờ không phải như ngày xưa mà khó tìm kiếm thông tin để đọc, để biết về đặc điểm cũng như tính năng của loại vũ khí tương đối cũ hoặc phổ biến nào đó như 37mm Cannon. Vậy mà anh nhà báo tác giả bài viết vẫn hồn nhiên viết bài, gửi đăng và người biên tập, đặc biệt là đồng chí tổng biên tập vốn dĩ có thói quen săm soi từng chữ cũng hồn nhiên cho đăng. Bài hot mà!
Kết quả là câu chuyện chém gió này gây trò cười cho không ít người và một lần nữa nó làm nhiều người cảm thấy buồn, thậm chí tổn thương bởi sự trung thực đã biến mất (chí ít là) trong người cầm bút (này). Bởi vô hình trung, một cách hết sức tự nhiên, một lần nữa, khái niệm bồi bút lại được nhắc đến, nó cho thấy người cầm bút không những cẩu thả, thiếu lòng tự trọng mà còn thiếu cả những kiến thức rất cơ bản trước khi xây dựng một câu chuyện (dù là chuyện để tô son, trét phấn).
Đương nhiên, trong cái buồn cũng có cái vui, bởi lẽ, qua đó, độc giả một lần nữa xác tín về những gì họ hoài nghi, nhìn thấy ở giới cầm bút nhà nước, họ không còn phải phân vân hay lưỡng lự trong chuyện có nên chọn thông tin báo chí nhà nước để làm tiêu điểm truyền thống troing cuộc sống hằng ngày hay không? Và nhiều người chắc chắn đã có câu trả lời dứt khoát, tránh tình trạng nấn ná, lưỡng lự. Đó cũng là cái hay.
Câu chuyện thứ hai, cũng là chuyện nâng bi cho nhân vật, nhưng có khác câu chuyện thứ nhất. Ở câu chuyện thứ hai, nói về một viên công an ở thành phố Đà Nẵng trong đêm sau lễ hội bắn pháo bông, anh đã cúi xuống nhặt rác bỏ vào bao tải giúp người phu quét đường. Và bài báo này xem đây là hành vi đẹp, hết lời ca ngợi viên công an này.
Mới đọc qua cũng thấy rằng xã hội Việt Nam lộn xộn cỡ nào và cách định nghĩa cũng như hiểu về chức năng công việc của một nhà báo như tác giả bài báo này bị cụt cỡ nào. Bởi chức năng cơ bản của một công an không phải là đi nhặt rác. Đương nhiên việc này cũng không thừa nếu như anh ta thực hiện chức năng của mình đầy đủ và nếu thấy thừa thời gian, anh có thể giúp người khác, đó là chuyện rất bình thường, giống như hàng triệu con người khác đang giúp đỡ nhau trong xã hội, chẳng có gì đáng bàn.
Nhưng ở đây, có hai vấn đề, thử hỏi, công an Việt nam có bao giờ làm đúng và đủ chức năng bảo vệ an ninh cho nhân dân? Nếu không muốn nói là họ từng đánh chết người, từng cưỡng chế nhân dân và từng “thấy là hốt liền” những người biểu tình chống Trung Quốc xâm chiếm lãnh hải Việt Nam.
Hơn nữa, nếu là chuyện bình thường thì có gì đáng nói? Sao lại phải ca ngợi như thế? Phải chăng bài báo này muốn lột trần sự xấu tệ của ngành công an và xem hành vì của viên công an trên là một sự bất thường, là tiêu biểu hay gì gì đó?
Khả năng thứ hai là lột trần cái xấu có vẻ như không xãy ra. Nhưng khả năng viết bài để ca ngợi “công an nhân dân” là chắn chắn có. Trong khi đó, một nhà báo, khi ca ngợi một vấn đề gì đó, trước nhất phải coi lại bản chất cũng như sứ mệnh và chức năng của đối tượng. Khi mà ngay trong chức năng, sứ mệnh của bản thân chưa bao giờ trọn vẹn lại đi diễn trò để được ca ngợi là chuyện quá tệ, không đáng bàn, thậm chí đáng khinh.
Ngược lại, nếu như đối tượng đã làm xong chức năng, sứ mệnh của bản thân và muốn chia sẻ thời gian rảnh rỗi của bản thân bằng cách giúp một ai đó thì cũng là chuyện bình thường. Trừ khi xã hội đó không bình thường, cách định nghĩa xã hội của người chứng kiến sự việc cũng không bình thường thì cái nhìn của người ta trở nên bất thường và bất kì việc cỏn con nào cũng xé cho to.
Và hơn hết, khi xã hội quá hiếm chuyện tốt, hiếm nghĩa cử hay hành vi tốt, một chuyện cỏn con cũng mang ra ca ngợi, nhào nặn nó thành một hành vi tiêu biểu hoặc một hiện tượng có tầm vóc thì rõ ràng là xã hội đó bất ổn. Và kẻ ca ngợi, thần thánh hóa nó quá thiển cận, nếu không muốn nói là đánh mất lòng tự trọng cũng như khả năng nhận định giá trị con người thông qua chức năng và sứ mệnh của công việc ở một người cầm bút.
Điều này chỉ chứng minh rằng báo chí nhà nước vốn quen ca ngợi của Việt Nam hiện tại đã trở nên trơ trẽn và không còn khả năng căn bản nhất của báo chí là ghi chép thực tại, nhìn nhận và đánh giá thực tại bằng một cách nào đó khách quan nhất.
Ngày Báo Chí Quốc Tế, tự dưng thấy báo chí Việt Nam vừa có chút gì đó khôi hài, lại vừa có điều gì đó thật khó nói, chí ít là cũng khó nói về giá trị, phẩm cách của người cầm bút nhà nước trong hiện tại. Thật đáng buồn và khôi hài!
VietTuSaiGon

Bướm Việt Trong Đêm Mã Lai

Nguồn : Vững Đại Phát 
Những cánh bướm đêm dập dìu trong bóng tối
Mặc Lâm, phóng sự từ Malaysia – RFA – 2 May 2015
Nếu người Việt hải ngoại tự hào với con phố Bolsa nơi có Little Saigon mà họ gọi một cách thân thương là Sài Gòn nhỏ thì khách du lịch từ Việt Nam sang Singapore có thể ghé quán Little Việt Nam nằm trên đại lộ Guillemard gần với con lộ Geylang để thưởng thức các món thuần Việt, hay xa hơn, tại Kuala Lumpur, một quán Little Việt Nam khác nằm trên đường Jalan Alor sẽ làm người xa nhà ngạc nhiên vì ở thành phố mà món ăn do người Hoa làm chủ nhưng một quán ăn nhỏ bé Việt Nam lại có thể đông đúc như vậy.
Một bài toán không lời giải
Singapore và Malaysia không những chỉ có nhà hàng mang tên Little Việt Nam mà nó còn những thứ Việt Nam khác đang sinh hoạt tại hai quốc gia này. Sự nhộn nhịp khi đêm xuống của một cộng đồng các cô gái từ các nước trong đó nhiều nhất là Việt Nam sang bán dâm đang là một bài toán không lời giải cho các tổ chức quan tâm về vấn đề buôn người trên khắp thế giới.
Singapore cũng giống như Thái Lan, cho phép thành lập các khu đèn đỏ hoạt động dưới sự kiểm soát trong một chừng mực nào đó của chính phủ. Khu Keong Saik trước đây và Geylang hay Joo Chiat bây giờ được vận hành bởi những hội kín của người Hoa. Giống như các hoạt động mãi dâm bất hợp pháp, dù hợp pháp chăng đi nữa thì nguồn hàng mới vẫn cần tìm kiếm, dụ dỗ có khi lừa bịp để cung cấp cho khách làng chơi. Việt Nam đã có sẵn đường giây lâu đời của các má mì người Việt lẫn Hoa hoạt động mà hơn một lần báo chí Việt Nam khui ra là xuất phát từ Trung Quốc.
Những cô gái Việt sang Singapore phần lớn đi một mình được sự hướng dẫn bằng điện thoại từ Geylang. Chấp nhận ra đi cô sẽ được ứng trước một số tiền tương đương 1.000 đô la Mỹ và sau đó mỗi tháng cộng với tiền lời 20% khiến cô khó mà trả hết số nợ ngày một tăng cao này. Ở Singapore các cô còn phải cạnh tranh với các cô gái đến từ nhiều nước khác như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Sri Lanka ngay cả với Campuchia nữa nên thu nhập không thể đủ để thanh toán các khoản chi tiêu trong đó có món nợ của các má mì đàn ông lẫn đàn bà, đa số là người Tàu nói tiếng Việt.
Khác với Singapore, chỉ cần băng qua biên giới thì thành phố Johor Bahru của Malaysia sẽ chào đón các cô gái Việt với nhiều cơ hội thành công hơn.
Johor Bahru có không ít tụ điểm về đêm và mặc dù là một quốc gia Hồi giáo trên 60% tín đồ, Malaysia tỏ ra khoan dung hơn Indonesia và các quốc gia hồi giáo khác.
Điểm đặc biệt mà người ta có thể nhận ra không cần bàn cãi đó là phụ nữ của quốc gia này không bán dâm trong tất cả các khu vực ăn chơi. Phụ nữ Mã ra phố trong trang phục phương Tây lẫn trong những khăn choàng của Hồi giáo. Những chiếc hijab choàng đầu sặc sỡ làm cho đất nước này xinh xắn hơn so với những bộ trang phục màu đen lạnh lùng và khép kín.
Bộ luật Sharia của Hồi giáo Malaysia không bao giờ tha thứ cho việc mua bán dâm. Đây là tội ác và báng bổ thần thánh có thể bị ném đá đến chết hay ít nhất cũng phạt roi cho tới tàn tật cả đời
Công việc mà người phụ nữ Malaysia cho là đáng xấu hổ này lại là nguồn khai thác cho các cô gái Việt. Nếu so với Singapore thì Malaysia là chốn thiên đàng cho nghề mãi dâm mặc dù lâu lâu cũng có một vụ càn quét của cảnh sát Mã. Cách đây ít lâu vào đêm 19 tháng 12 năm 2014 quán The Zone ở đường Ibrahim Sultan, thành phố Johor Bahru cảnh sát đã bắt giữ một số gái Việt nhưng các cô lại xuất hiện vài ngày sau đó và ánh đèn của The Zone tiếp tục nhấp nháy trở lại.
Từ Johor Bahru, 184 cây số về hướng Nam là thành phố cổ kính Malacca. Nơi đây ban ngày du khách không thấy hình dạng nào của sự ăn chơi nhưng khi màn đêm buông xuống thì những tụ điểm lên đèn và trong những quán bar đó toàn những cô gái Việt Nam ngồi rót bia cho khách với một thứ ngôn ngữ duy nhất là tiếng Hoa.
Khách làng chơi tại Malacca hầu hết du lịch tour từ nhiều nước của cộng đồng nói tiếng Hoa như Đài Loan, Macau, Hongkong, Singapore và dĩ nhiên nhiều nhất vẫn là Trung Quốc đại lục. Tất cả những quốc gia nói tiếng Hoa ấy được các cô gái Việt gọi chung là người Tàu hay tiếng Tàu và khi giao tiếp với họ chỉ cần học vài tiếng phổ thông là đủ.
Chấp nhận hoàn cảnh
Giống như hầu hết các quán Bar nổi tiếng khác của Malaysia, tại Malacca tiếp viên được chia 20 Ringgit (tiền Mã) khi khui được 5 chai bia cho khách với giá bán 25 Ringgit một chai, tương đương với 7 đô la Mỹ. Mỗi đêm nếu may mắn có nhiều khách tiền khui bia có thể lên tới 50 đô la đó là chưa kể tiền bo khi ngồi với khách.
Tuy nhiên hiếm khi cô gái nào chịu ngồi với khách mà không rủ rê họ để bán dâm. Nếu có nhan sắc và giỏi tiếng Tàu thì có thể ngồi với khách nhưng thiếu hai yếu tố này thì con đường duy nhất kiếm tiền là phải bán thân. Không ít người trong các cô gái ấy là công nhân xuất khẩu lao động, họ đến từ khắp nơi trên đất nước Việt Nam chứ không riêng gì gái miền Tây như định kiến của báo chí trong nước. Do việc làm không đủ họ bỏ trốn ra ngoài làm chui và con đường mãi dâm đến với họ không phải là khó khăn dưới sự săn đuổi của những cô gái giống như họ nhưng bây giờ đã trở thành mối lái do tuổi tác hay bệnh tật.
Một cô gái kể lại hoàn cảnh khó khăn khi đi lao động tại Malaysia, từ Ayer Hiltam cách Malacca 40 cây số cô nói:
“Nói chung là theo hoàn cảnh nào phải chấp nhận. Gia đình khó khăn thì bên này phải chịu khó làm kiếm tiền giúp gia đình. Chồng cháu bị tai nạn ở chân không đi làm được cháu phải sang đây làm. Cháu ký hai năm nhưng hơn năm thì công ty không có việc nên lên đây làm chui. Làm có tiền rời mới tính sau này nhờ các anh này làm giấy tờ rồi về.”
Không phải ai cũng chịu đựng như cô Lam, một cô gái khác gốc gác Thanh Hóa cho biết con đường mà cô theo từ khi sang Malaysia 2 năm về trước:
“Nhà em ngoài Bắc thì làm lúa làm rẫy, trồng mía trồng trà làm ruộng. Lần đầu tiên thì con bạn hồi đó đi làm công nhân nhưng hồi đó lương thấp thấy bạn đi về nhiều tiền nên ham. Nó nói cho số điện thoại bên đây rồi tự ra sân bay, vé thì nó đặt giúm cứ tự ra sân bay tự đi. Cũng sợ lắm nhưng kệ, đi tới đâu thì điện thoại dẫn tới đấy. Thấy người ta nói chuyện giống như bên Việt Nam xem phim mà không có phiên dịch, chẳng hiểu gì hết cứ lắc lắc không thôi.”
Từ Malacca cách thủ đô Kuala Lumpur 145 cây số là ngôi tháp đôi nổi tiếng Petronas Twin Tower. Dọc bên hông ngôi tháp đôi này là đường Jalan P. Ramlee nơi có hai tụ điểm cũng nổi tiếng không kém ngôi tháp Petronas đó là câu lạc bộ Beach và Thai Club, hai quán bar có chiêu đãi viên toàn người Việt Nam.
Beach nổi tiếng đến nỗi bất cứ xe taxi nào tại Kuala Lumpur cũng đều phải biết. Dáng vẻ sang trọng chứa bên trong hàng trăm cô gái Việt mỗi đêm đã làm cho Beach có tên tuổi so với các nơi ăn chơi về đêm khác của Kuala Lumpur. 80% khách vào đây là người Tàu còn lại là Tây và hiếm lắm mới có vài người đàn ông bản xứ. Những cô gái trẻ từ 18 tới 25 lượn lờ trong quán và sẵn lòng chia sẻ tiếng cười của mình với khách mặc dù trước đó họ có bị chủ nợ đòi hay một cú phone xin tiền từ nhà gọi sang báo tin người thân trong gia đình mang trọng bệnh
Các cô không hẳn là trẻ hết, trong đó cũng có người mà tuổi tác đã làm cho khách phải kín đáo nhăn mặt. Trang là một cô gái như thế mặc dù tuổi chưa quá 35 nhưng sự lo âu đã nằm trọn trên đuôi mắt. Nói với chúng tôi trước chai bia sắp cạn Trang kể:
“Có bà chị kêu em qua nấu ăn cho đào, phụ nấu ăn cho nhà bả. Qua nấu ăn thời gian thì kinh tế bả khó khăn bả nói thôi giờ nghĩ nấu ăn đi vì đào nó ăn tự túc hết rồi, vậy thì thôi giờ em đi làm luôn đi. Ba tháng sau học tiếng, ráng học. Nói chung còn thiếu bả 3.000 giờ ráng làm để trả.”
Sau một hồi chạy quanh đâu đó, Trang trở lại bàn và kể nhiều hơn về gia đình cô tại Long An, trong đó động cơ thúc đẩy cô sang Malaysia chính là chồng mình do đã liên tục sách nhiễu tình dục đối với người vợ đã quá kiệt sức sau những giờ làm việc tất bật, Trang kể:
“Bây giờ nói chung em không biết may giày nhưng mà cách xếp giày thì em biết hết rồi, giày Nike đó chuyên nghiệp về giày Nike. Cứ 6 giờ là có mặt và ngày nào cũng tăng ca bắt buộc phải tăng ca tới 7 giờ sau 7 giờ ngày em tăng ca thì nhà em gần nhà mấy chị hàng bông, trước khi làm Nike nhà em bán hàng bông mà, sau giờ đó thì em chở ra chợ em sang rồi 7 giờ tới 8 giờ em về tới nhà. Cơm nước giặt đồ quay qua quay lại tắm rửa con cái ngủ hết thì em lặt ớt. Lặt ớt tới 11-12 giờ khuya ngủ được một miếng tới 3 giờ em dậy đi bán rồi.
Nói chung là nó đòi quan hệ. Thật sự thì quá mỏi mệt luôn ngày nào cũng như ngày nấy làm sao chịu nỗi? Em mới nói một tuần em chỉ cho quan hệ một lần vợ chồng ai cũng vậy không có ai quan hệ nhiều, phụ nữ mà.”
Đối diện xéo góc với Beach là Thai Club, có lẽ do một người Thái làm chủ. Phong cách Thái lộ rõ khi bên hông của quán bar này là một chiếc miếu thờ Phật bốn mặt mà trước khi vào quán các cô gái Việt ghé vào thắp nhang thành kính cầu xin cho buôn may bán đắt. Sát với Thái Club là quán bán thức ăn Việt Nam có tên Tiệm Cà Phê Việt Nam. Ngôi quán nhỏ nhắn có nhân viên người Việt rất dễ thương trải lòng mọi chuyện xảy ra tại đây để khách thấy được bức tranh tổng thể cuộc sống của hàng ngàn cô gái Việt đang bơi lội trong chiếc ao nhỏ bé mang tên Kuala Lumpur để bán thân xứ người.
Từ con đường Jalan P. Ramlee đến một con đường nhỏ khác có tên Jalan Alor không bao xa các cô gái thường ghé một quán Việt Nam ở đó để ăn uống, tán gẫu trước và sau khi làm việc tại Beach hay Thai Club. Quán nhỏ, bán nhiều thức ăn Việt và khách chủ yếu là công nhân xuất khẩu lao động hay những cánh bướm đêm của Việt Nam. Người ta có thể thưởng thức một tô phở nóng đặc trưng Hà Nội hay bánh hỏi heo quay đặc sản của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Chủ quán có vẻ biết khai thác tâm lý người xa quê khi không quên một món mà không người miền Nam nào lại không biết đó là bánh mì Việt Nam.
Trước cửa quán là chiếc xe bánh mì đầy thịt ba rọi, xíu mại, thịt nướng cùng rau chua khiến hình ảnh một Sài Gòn trong lòng bùng dậy ấm áp xoa dịu chút gì đó trăn trở và chen lẫn hối hận của các cô gái tha phương
Họ như những cánh bướm đêm, sặc sỡ và lười biếng từ ăn nói tới đi đứng, chuyện trò. Có lẽ họ quá mỏi mệt khi phải đối phó với nhiều thứ bên cạnh việc hằng đêm phải làm chuyện mà không người đàn bà nào muốn. Những khuôn mặt của nhiều vùng quê Việt Nam từ Cà Mau đến Thanh Hóa, Lạng Sơn…tại đây họ không còn phân biệt vùng miền mà chính yếu sự phân loại ấy nằm ở trong ruột những cuốn hộ chiếu mang giòng chữ Hộ chiếu Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các con dấu ở phi trường hay cửa khẩu của Malaysia sẽ nói lên người cầm nó trong tình trạng nào, hợp pháp hay bất hợp pháp trước pháp luật của Malaysia.
Nghị định khung miễn thị thực Visa trong khối ASEAN được ký từ năm 2006 cho phép thời gian lưu trú của công dân các nước trong khối ASEAN không quá 14 ngày đối với Brunei và Myanmar, không quá 21 ngày đối với Philippines, không quá 30 ngày đối với Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Thái Lan Việt Nam và Singapore.
Ba mươi ngày nhập cảnh vào các nước Đông nam á là khoảng thời gian mà ASEAN tính tới nhằm ngăn chặn tệ nạn lao động chui qua con đường du lịch. Thời gian ít ỏi không cho phép người nước khác mua vé máy bay trở về nhà rồi tiếp tục sang làm việc với một lần nhập cảnh mới. Tuy nhiên sự tính toán này tỏ ra không hiệu quả đối với lao động xuất khẩu của Việt Nam và lại càng không thể áp dụng với các cô gái hành nghề mãi dâm đang tràn ngập đất nước Malaysia.
Cầm trên tay cuốn hộ chiếu chưa một lần đóng dấu không ít các cô gái Việt Nam bây giờ mới biết sự quan trọng của những trang giấy trắng tinh này. Từ Việt Nam có cô nhờ luôn công ty môi giới làm sẵn hộ chiếu cho mình, khi lên máy bay cuốn hộ chiếu ấy do người đại diện công ty cầm giữ, bước xuống phi trường về tới chỗ làm việc họ cũng không có cơ hội nhìn thấy nó vì chủ nhân giữ lại để tránh việc họ trốn ra ngoài làm chui.
Con đường của một cuốn hộ chiếu theo chân công dân Việt còn lắm gian nan nữa nếu chủ nhân của nó có ý định trốn lại Malaysia để làm việc bất kể tình trạng di dân bất hợp pháp của mình.
Sự liều lĩnh ấy dù sao tồn tại được cũng nhờ vào các mánh khóe cộng với sự tiếp tay của các nhân viên chính phủ của hai nước cấp và chấp nhận hộ chiếu Việt Nam. Các cô gái hành nghề mãi dâm trên toàn đất nước Malaysia có cùng một cách để ở lại cho dù tấm hộ chiếu của họ thuộc loại nào. Có ba loại hộ chiếu cùng xuất hiện tại đây: Hộ chiếu chết, hộ chiếu chốt và hộ chiếu trắng.
Hộ chiếu chết là hộ chiếu đã hết hạn từ lâu nhưng chủ nhân của nó không buồn ngó ngàng gì tới cho đến khi có ý định trở về Việt Nam thì tính sau. Hộ chiếu “chốt” là khi hết hạn người cầm nó quay về Thái Lan, sau đó nhập cảnh lại vào Malaysia để có con dấu thị thực mới. Hộ hiếu trắng là người cầm nó quay hẳn về Việt Nam làm một cuốn hộ chiếu mới để quay lại Mã.
Cô gái đến từ Thanh Hóa tên Thuần cho biết cách mà một người muốn vào lại Malaysia qua việc đi chốt, tức là đi đóng dấu tại cửa khẩu Malaysia và Thái Lan:
“Đi chốt (hay chốp) là cứ một tháng đi một lần. Thí dụ như mùng bốn tháng trước mùng bốn tháng này là một tháng nhưng phải đi trước khoảng 27-28 chứ không để tới mùng bốn. Hai bảy hai tám ra bến xe mua vé đi Thái. Từ Malacca sang tới Thái Lan sáng hôm sau qua khỏi cửa khẩu của Mã xong rồi vô Thái nhập cảnh trong Thái đi chốt là qua Thái xong nhập cảnh vô Mã Lai lại thì tốn ít tiền chứ vể Việt Nam qua lại rất khó. Ba tháng mới về nhà về Việt Nam một lần. Bên này đi chốt sang Thái thì ba lần phải về Việt Nam xong quay sang bằng hộ chiếu mới. Về Việt Nam đổi passport mới xong lại quay sang đi chốt tiếp.”
Nếu hộ chiếu quá cũ thì đi chốt sẽ bị từ chối và có thể vào tù. Có hai cách để tránh tình trạng đi chốt liên tục mỗi tháng. Cách thứ nhất đóng dấu nhập cảnh giả, cách thứ hai quay về việt Nam làm hộ chiếu mới hay hộ chiếu trắng.
Cách thứ nhất có rất nhiều người theo vì ít tốn kém hơn nữa cảnh sát Mã có hỏi thì cũng không biết được con dấu giả hay thật ngoại trừ nhân viên của sở di trú dưới tên tắt là ZELA.
Theo cô Thuận thì cô chọn cách thứ hai vì chỉ với một số tiền vừa phải là có thể an tâm quay lại Malaysia mà không sợ pháp luật gõ cửa:
“Mình không muốn bản cũ nên đổi cái mới. Ra Hà Nội đổi thì có hai trăm ngàn nhưng mà lâu và lằng nhằng lắm. Môi giới thì nhanh cho tiền chúng nó là xong. Làm đổi mới chỉ trong ngày lấy thì một triệu ba. Nếu ba ngày lấy thì 600 ngàn còn nửa tháng mới lấy thì 200 ngàn.”
Không có tiền như các cô gái sống về đêm, công nhân xuất khẩu lao động mỗi khi muốn trở về Việt Nam thì cách duy nhất là nhờ môi giới với đại sứ quán Việt Nam tại Malaysia, một công nhân người Phú Thọ cho biết:
“Thì chúng cháu phải nhờ môi giới ở đây để đưa lên Đại sứ quán người ta làm thù tục giấy tờ cho bọn cháu về. Có nghĩa là trả tiền người ta lo cho mình về chắc cũng tầm 2 nghìn hay 2 nghìn mốt gì đó. Hai nghìn đó thì bọn cháu phải làm việc trong 3 tháng.”
Vài ngày trước, hôm thứ ba ngày 21 tháng 4 năm 2015 một cuộc hội thảo mang tên Xây dựng chương trình hành động phòng chống mua bán người giai đoạn 2016-2020 do Ban chỉ đạo Phòng chống tội phạm của Chính phủ tổ chức tại TP.HCM cho biết mỗi năm có 5.000 phụ nữ sang Singapore và Malaysia hành nghể mãi dâm. Con số này thật ra đã bớt xuống nếu so với thống kê của Cơ quan di trú Malaysia cho biết có ít nhất 18 ngàn người hành nghề mãi dâm trong đó gái Việt Nam là hơn 8 ngàn người.
Đầu năm nay một quán bar tại vùng Sitiawan bị cơ quan ZELA ập vào bắt giữ hơn 40 cô gái Việt nhưng chỉ sáng hôm sau hầu hết các cô đều được chủ nhân chuộc ra và diễn tiến này lập lại sau đó hai tháng đối với hai câu lạc bộ Beach và Thai Club tại Kuala Lumpur.
Luật Malaysia quy định nếu bị phát hiện nhập cảnh và ở quá thời hạn người cầm hộ chiếu sẽ bị giam giữ hai tháng sau đó trục xuất về nơi xuất phát. Tuy nhiên ít có người bị giam hay trục xuất vì đa số đã được lót tay để cho qua và tiếp tục ở lại hành nghề.
Chính phủ cũng không thể truy tố chủ nhân các quán bar về tội buôn người cho dù chỉ cần bằng chứng họ cho mượn tiền và buộc phải làm việc cho họ là đủ cấu thành tội phạm. Lý do là không một cô gái Việt nào dám nói ra sự thật vì sợ trả thù và cũng sợ hết đường làm ăn. Hơn nữa đối với các nạn nhân thì việc má mì cho mượn tiền xuất phát từ lòng tốt và truyền thống người Việt không nên lấy oán trả ơn.
Những ký sinh sống bám vào mồ hôi của các cô gái Việt dưới nhiều hình thức: cho thuê nhà, cho vay lấy lãi, môi giới hộ chiếu, môi giới bán dâm…tất cả đều là dạng buôn người nhưng nếu tìm người chứng thì không ai dám đứng ra vì hệ thống dày dặc của bang hội người Hoa.
Đã từng có vụ giết người được cảnh sát cho là bịt miệng nhân chứng xảy ra và hình ảnh cô gái Việt Nam nằm chết sóng xoài trong một quán bar đã khiến hầu hết các cô gái Việt chết khiếp.
Mạng lưới mafia hay đường dây buôn người tại Mã chưa bao giờ bị phát hiện mặc dù liên tục bị cảnh sát theo dõi. Giống như hầu hết các tổ chức buôn người trên thế giới, những đồng tiền hối lộ luôn là đồng tiền khôn và sự thật hiển nhiên không một quốc gia Đông nam á nào lại từ chối việc được hối lộ.
Nhưng có lẽ sức mạnh đồng tiền mới chính là lý do khiến các cô im lặng. Thu nhập một đêm tại Beach hay Thai Club có thể từ 1 tới 2 trăm đô la Mỹ đã vây hãm thân thể họ trong vòng tròn son phấn. Cho tới khi son phấn phai nhạt thì con đường trở thành má mì dẫn dắt các cô gái khác lại tiếp tục làm cho vòng tròn sinh sản của những cánh bướm đêm sang một chu kỳ khác.
Bốn mươi năm đã qua kể từ ngày Văn Cao sáng tác bài Mùa Xuân đầu tiên, người Việt những tưởng cái mùa xuân đáng ao ước ấy sẽ vĩnh viễn trở về trên đất nước Việt Nam. Có đâu 40 năm đã qua mà mùa xuân chỉ xuất hiện về đêm, qua những cánh bướm tả tơi nơi thành phố xa lạ và không hề được thông cảm cho nhịp đập của những đôi cánh ấy.