Thứ Tư, 1 tháng 7, 2015

Rồi như đá ngây ngô

Tác Giả: Tuấn Khanh – Blog – 24 June 2015
Báo chí Việt Nam đang rộ lên chuyện một bộ phim truyền hình của Ấn Độ kéo dài đến gần 2000 tập. Các ý kiến được dẫn lời về bộ phim, cái thì khen tài làm phim dài hơi, cái thì chê bai mọi chuyện cứ kéo lê thê một cách không cần thiết và buồn chán.
Khán giả hôm nay thật khó mà chìu chuộng được. Báo chí cũng khó mà chìu lòng được. Thật khác với trước kia, khi truyền hình vẫn lê thê và chán chường với các buổi chiếu Đơn giản tôi là Maria, Người giàu cũng khóc… dù không thích nhưng nhiều gia đình vẫn tụ họp nhau trước màn ảnh để xem – như một trong những món giải trí quan trọng nhất trong ngày. Và những ngày ấy, dù phim nhạt hơn nước ốc, cũng có không ít những bài viết ca ngợi nền điện ảnh Mỹ Latin, ca ngợi những tập phim tố cáo chế độ tư bản ung nhọt và thối nát… Đời sống chợ đêm hay Khi người ta yêu cũng chỉ là các cuộc trò chuyện lãng đãng, rồi kéo dài như vô tận, cũng có thời từng được nhiều báo khen ngợi.
Một bộ phim nhiều tập, tự nó đâu có lỗi lầm gì, phải không?. Nhân loại đã chứng kiến không ít các bộ phim dài tập đến giật mình, diễn viên già nua theo năm tháng vẫn phải bám theo diễn xuất. Mô-típ kịch bản thế nào rồi cũng đoán được. Phim giải trí vẫn được làm thêm tập theo nguyên tắc “còn người xem còn chiếu”. The Friends với David Schwimmer, Jennifer Aniston… được kéo đến 10 năm, các diễn viên phải năn nỉ xin thôi vì không còn sức để diễn những vai độc thân hài hước và trẻ trung nữa. Vậy mà khi phim ngừng, không ít khán giả đã khóc than, tiếc nuối.
Có vài lý do suy đoán về chuyện báo chí đột ngột lên tiếng chê bai phim dài tập: gắng nói vì không còn gì để nói, hoặc vì khán giả ai nấy hôm nay không còn đủ kiên nhẫn như xưa nữa. Cuộc sống rầm rập những đổi thay bên ngoài bất tận như giá xăng, giá dầu, giá điện, giá thực phẩm… khiến người ta không còn an nhiên nữa để ngồi thưởng thức những câu chuyện dài không hồi kết.
Có lẽ mất kiên nhẫn trước cuộc sống đang sôi sùng sục, là một lý do quan trọng. Giới trẻ mất kiên nhẫn trước thể kỷ hiện đại, nên chọn cho mình một lối thưởng thức âm nhạc hiện đại dồn dập, thôi thúc. Các nhà điện ảnh cũng không còn kiên nhẫn trước các kịch bản dàn trãi, mà vào phim phải lập tức bắn, giết và nude. Các nhân vật nổi tiếng thì tranh nhau nói những điều rỗng tuếch và ngu ngốc để được báo chí đưa tin, chỉ vì sợ thua một bước chân của chúng bạn trên đường đua vô nghĩa.
Con người Việt Nam đang mất kiên nhẫn với điện ảnh, với thảm họa âm nhạc, với văn chương trộm cắp lẫn nhau… âu thì cũng là một niềm vui. Cũng đến lúc mà sự mất kiên nhẫn cho thấy mặt tích cực của nó: thôi thúc sự đổi thay và nhận diện đúng mọi thứ chung quanh mình. Con người không còn thụ động ngó nhìn và im lặng, như đá ngây ngô.
Nhưng mong rằng sự mất kiên nhẫn đó của người Việt sẽ lớn hơn, đi xa hơn trong một cuộc sống đang cần thật nhiều lửa trong trái tim mình, cần nhiều tiếng đập cửa để nghe tiếng vọng lại, để phá vỡ không gian phong bế vô hình, không chỉ là chuyện phim ảnh tầm ruồng.
Cũng đã đến lúc người Việt cần nhận ra rằng, chính cuộc sống thực tế hôm nay, không khác gì những cuốn phim dài tập không kết cục đến đáng giận. Người Việt cũng cần tắt bỏ những hình ảnh chớp lóa thôi miên trước mặt, dụi mắt và đòi chấm dứt trong một cái kết có hậu tức thì. Lúc này, người Việt rất cần mất kiên nhẫn để đứng dậy, rời khỏi gánh hát xã hội chính trị vô tận ngu xuẩn vẫn thấy.
Sự mất kiên nhẫn đó, đã được thể hiện bằng lời mỉa mai nhức nhối về chuyện xã hội Việt Nam. Như ông Nguyễn Xuân Hồng, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN&PTNT), luôn miệng cười tươi và kiên cường khuyên nhủ dân chúng ăn thực phẩm có chất độc nhập từ Trung Quốc. Sự mất kiên nhẫn đó là cách dân chúng liên tục chỉ ra nạn bạo hành, lạm dụng quyền lực và coi thường công dân trong giới cảnh sát giao thông, công an đang ngày càng dâng cao, thông qua các bài viết và video. Sự mất kiên nhẫn đó là câu hỏi được nhắc từng ngày về sự công chính cần thiết trong vụ án Hồ Duy Hải, Nguyễn Văn Chưởng… về những tượng đài vụn vỡ vì bị ăn bớt, về những đền đài, dinh thự xây âm thầm, về đại lộ, cầu cống ngàn tỉ sụp đổ vì nạn tham nhũng, do các quan chức coi thường nhân dân mình.
Đừng nói với tôi là bạn không thấy xã hội và thông tin ở Việt Nam đang ngày càng mất kiên nhẫn nhé?
Sự mất kiên nhẫn đó cũng đang được nhìn thấy ở vỉa hè, ở facebook, lan rộng ở các câu bình luận trong các trang báo điện tử… người ta đang nói với nhau về những bộ phim không có hồi kết, những bộ phim đời thật sự nhức nhối cần phải nói, hơn là những tập phim truyền hình duy giải trí.
Tôi vẫn nghĩ có thể vào lúc nào đó, xã hội Việt Nam sẽ còn mất kiên nhẫn hơn và quyết liệt hơn nữa khi đưa ra những câu hỏi, cần phải được trả lời cho chuyện tàu cá Trung Quốc ngày đêm liên tục đâm tàu Việt Nam – ngay trong biển Việt Nam, mà quốc hội thì ngủ gật, về sớm và lặng im. Cuốn phim kéo dài và vô lương về chuyện khai thác bauxite cho Trung Quốc càng làm càng lỗ, sau ba năm lỗ đến gần 38 triệu USD, vì sao cứ phải lầm lũi kéo dài? Ôi những cuốn phim đau thương đó trong đất nước này, đang chồng chất, đợi trình chiếu với kết cục đau thương.
Kiên nhẫn là điều cần thiết, nhưng luôn nằm trong vùng ước lệ, qua việc nhìn thấy thực tế hiển hiện. Mất kiên nhẫn là điều thường được coi là không tốt. Nhưng mất kiên nhẫn khi phải chứng kiến các bộ phim đời vô đạo và khó hiểu kéo dài lại là điều cần thiết.
Kiên nhẫn tột bật có thể là thánh nhân. Nhưng kiên nhẫn trước những điều ngụy lý bại thường quanh mình, có thể biến mình thành vô tri như đá cuội – biến mình thành như đá ngây ngô, phải không, người bạn đang đọc tôi?
Tuấn Khanh

Ngu dốt luôn đi đôi với bảo thủ

Tác giả: Viết từ Saigon – RFA – 23 June 2015
Năm ngoái, chuyện này cũng đã rùm beng, thậm chí được báo chí trong nước đẩy lên thành sự kiện chính trị, nhiều tờ báo loan tin, đại khái: “ngành an ninh đã bắt được một số lượng lớn nón cối, quần áo, giày dép nhà binh Mỹ. Có thể đây là nguồn hàng có liên quan đến những nhân vật ‘anh hùng rừng lá thấp’ đã âm thầm hoạt động chống phá nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Và bản tin kiểu đó xuất hiện khá nhiều. Sau đó bặt đi gần một năm, mãi đến khi chuyện hợp đồng may quân phục Mỹ của một doanh nghiệp Việt Nam bị hủy, doanh nghiệp Việt Nam mất đứt hợp đồng trị giá hai tỉ USD, chuyện mới vỡ xòa.

Mà buồn cười nhất là vấn đề cái dốt, sự ngu muội luôn đi đôi với tính bảo thủ thành một chân lý. Cái chân lý buồn cười này không phải quốc gia nào cũng vinh hạnh có được giống như Việt Nam. Cũng xin nói thêm, vụ tịch thu hàng mẫu trong hợp đồng quân phục Mỹ này do an ninh một sân bay quốc tế Việt Nam lập công. Cũng giống như bao cảng hàng không quốc tế tại Việt Nam, đâu đâu cũng có thể bắt gặp hệ thống an ninh sân bay rất gắt gao, soi từng cọng lông nhưng hành lý của khách mất vẫn cứ mất, Việt Kiều thì mất càng bạo tay hơn.
Đó chỉ là chuyện mất vặt, nhưng mất hợp đồng hai tỉ đô la Mỹ thì chuyện chẳng phải đùa nữa. thế nhưng mất hợp đồng thì doanh nghiệp tự chịu lấy, chẳng có ông an ninh nào, bà hải quan nào đứng ra chịu trách nhiệm hay xin lỗi “khổ chủ”. Và trong trường hợp này, cũng khó mà kiện được bởi bị đơn là một hệ thống đang được nhà cầm quyền trung ương ưu ái nhất – hệ thống công an.
Không phải đơn giản muốn cấm thì cấm, muốn thu thì ngang nhiên tịch thu hay muốn khoắn thì tha hồ khoắn mà đây là vấn đề hệ trọng, liên quan đến danh dự nghề nghiệp, danh dự quốc gia. Một khi phạm tội, sai phạm nhiều lần mà hệ thống này vẫn cứ hoạt động nhịp nhàng, vẫn cứ khoắn của hành khách đều đều và gây tổn thất hợp đồng hai tỉ USD cứ như chuyện đùa thì chắc chắn bên trên hệ thống đó phải có cái dù to lớn đến mức che cả mặt trời, che cả công lý và che cả lòng dân rồi.
Thiết nghĩ cũng không cần bàn thêm về cái dù mà thử đặt câu hỏi tại sao có những cái dù hết sức kì cục như vậy, vừa bao che cho cái xấu, đỡ đầu cho tội ác lại vừa gián tiếp bán rẻ danh dự quốc gia, bôi tro trét trấu lên gương mặt dân tộc?
Vì gì? Câu trả lời không thể xoay vào đâu được ngoài cái vì độc tài, độc đoán và bảo thủ. Vì độc tài, người ta tôn vinh tính độc đoán và để đảm bảo độc đoán, người ta hành xử bảo thủ. Bởi vì chỉ có bảo thủ mới đảm bảo được những yêu cầu của độc đoán và độc tài. Và để đảm bảo sự bảo thủ của mình được thông suốt, không bị lực cản, người ta buộc phải dùng đến hệ thống khát máu, gian xảo, bất chấp thủ đoạn. Hiện tại, để có hệ thống theo chiều dọc nhằm đảm bảo tính bảo thủ của chế độ cầm quyền để bảo vệ nền độc tài, người ta đã sử dụng lực lượng mang tính chất vừa nêu.
Và an ninh sân bay là một trong những nhóm tay chân, bộ hạ nhằm bảo vệ nền độc tài. Đặc biệt, an ninh sân bay có công việc tương đối phức tạp, vừa liên quan đến nghiệp vụ an ninh thuần túy lại vừa liên quan đến chức năng bảo vệ đảng, bảo vệ nền độc tài. Chính vì kiểu làm việc kiêm nhiệm, đôi khi phải chịu khổ nhục về thể diện trước con mắt quốc tế như vậy mà an ninh sân bay được ưu ái nhiều thứ. Trong đó có ưu ái để ăn cắp vặt, ưu ái để phá hoại.
Sự việc an ninh sân bay phá hoại hay ăn cắp không còn xa lạ gì trong con mắt hành khách quốc tế cũng như hành khách trong nước. Nó vẫn diễn ra ngày càng mạnh bạo hơn và ngang nhiên không coi ai ra gì. Bởi vì nó được bảo kê bởi một hệ thống quyền lực bên trên. Nhưng vì sao người ta lại chọn phương thức tồn tại nhục nhã như thế? Bởi suy cho cùng, bất kỳ phương tiện nào đi đến mục đích có tính chất gian manh đều cho thấy mục đích chẳng tốt đẹp của nó.
Trong trường hợp này, lực lượng công an cùng với hệ thống hành vi hết sức vô văn hóa, gian manh và giảo hoạt của họ đều là phương tiện nhằm bảo vệ chế độ. Và một khi phương tiện ưu tú cỡ đó thì chắc không mấy khó khăn đoán ra mục đích cũng như bản chất tồn tại của nó. Bởi chỉ có sự ngu dốt mới đảm bảo cho tính bảo thủ đi cạnh nó lâu dài. Và bao giờ còn bảo thủ, còn nhũng nhiễu, còn độc tài thì sự ngu dốt còn hiện hữu, còn hoành hành mảnh đất Việt Nam này.
Rất tiếc là câu chuyện ngu dốt và bảo thủ, độc đoán, độc tài vẫn là câu chuyện chưa bao giờ có hồi kết thúc trong chế độ công an trị tại Việt Nam hiện tại! Và một khi nó còn hiện hữu thì cơ hội để tiến bộ cũng như cơ hội làm giàu, góp tay xây dựng đất nước của mọi doanh nghiệp, cá nhân đều bị con mắt soi mói của nó chiếu cố. Đợi cho nó đồng thuận sau một chu kì soi mói để được tiến bộ, làm giàu, chắc người ta đã già đi hoặc người ta đã phá sản vì nó. Đó là cái giá của một công dân sống dưới bóng mây độc tài, bảo thủ!
Viết Từ Sài Gòn

Thân Tàu Nên Mất Nước ?

Luật sư Nguyễn Xuân Phước - BBC – 12 June 2015
(Luật sư Nguyễn Xuân Phước từ Texas viết về bài học Triều Nguyễn và xu hướng thân Trung Hoa đưa tới chỗ mất nước và so sánh với tình trạng lệ thuộc tư tưởng ngày nay)

Năm 1802 Nguyễn Ánh diệt được nhà Tây Sơn, lên ngôi lấy hiệu là Gia Long và chọn Phú Xuân làm kinh đô. Đến đời Minh Mạng cố đô Thăng Long đổi thành Hà Nội. Nhưng quá trình thống nhất và sự sai lầm trong việc chọn lựa con đuờng phát triển đất nước ở các triều đại nhà Nguyễn đã đánh mất cơ hội phục hưng tổ quốc, làm tiêu tán nội lực dân tộc, dẫn đưa đất nước đến giai đoạn đánh mất nền độc lập.
Khi Nguyễn Ánh phát động chiến tranh chống lại nhà Tây Sơn, ngài đã dựa vào hai thế lực ở nước ngoài. Ðó là lực lượng của người Tây phương và lực lượng người Trung Hoa.
Đứng đầu lực lượng Tây phương phò Nguyễn Ánh là đức giám mục Bá Ða Lộc. Nguyễn Ánh gặp giám mục Bá Ða Lộc khi ngài bôn tẩu ở Vọng Các, kinh đô của Xiêm La, tức Thái Lan. Từ đó, mối quan hệ của hai nguời trở nên mật thiết. Ðể vận động sự trợ giúp của Pháp quốc, Nguyễn Ánh đã giao hoàng tử Cảnh lúc mới lên bốn cho giám mục Bá Ða Lộc. Đồng thời giám mục có toàn quyền ký hiệp định với hoàng đế Pháp để giúp cho Nguyễn Ánh đánh nhà Tây Sơn. Sau đó ông trở về Pháp để vận động viện trợ cho Nguyễn Ánh. Ngài đã thay mặt Nguyễn Ánh ký hiệp ước 1787 dùng các đảo Côn Sơn và các đảo ngoài khơi Đà Nẵng (là Hoàng Sa) để đổi lấy viện trợ quân sự. Nhưng việc thi hành hiệp ước 1787 với Pháp thất bại.
Sau đó giám mục Bá Ða Lộc đã bỏ tiền túi cũng như vận động tài chánh riêng để mua khí giới và đưa sĩ quan Pháp về huấn luyện cho quân Nguyễn Ánh. Những người Pháp giúp cho Nguyễn Ánh như Sạc Ne (Charner) và Sai Nhô (Chaigneau) đều được tham dự triều chính của vua Gia Long khi ngài lên ngôi.
Chúng ta có thể khẳng định rằng vua Gia Long là vị vua Á Châu đầu tiên biết xử dụng nhân tài Tây Phương để phục vụ cho đất nước.
Hai phe đấu đá
Người đầu tiên chịu ảnh hưởng Tây phương trong triều đình Gia Long là hoàng tử Cảnh. Hoàng tử Cảnh được vua cha Gia Long cho theo đức giám mục Bá Ða Lộc từ lúc ông mới 4 tuổi. Ở tuổi thơ ấu này, hoàng tử Cảnh rất dễ tiếp thu văn hoá và ngôn ngữ Tây phương. Có lẽ hoàng tử Cảnh là vị hoàng tử Á Châu đầu tiên được theo Tây học ở cuối thế kỷ thứ 18. Tuy lịch sử không nói nhiều đến cuộc đời của hoàng tử Cảnh, ngày nay chúng ta có thể suy luận được rằng hoàng tử Cảnh là người tiếp cận văn hoá tây phương rất sớm, thông thạo Pháp ngữ, Latin và có quan hệ rất tốt với Tây phương.
Ngoài ra, cánh quân sự trong triều đình Gia Long là thành phần chịu ảnh hưởng của Tây phương. Họ là những người trực tiếp xử dụng vũ khí của Tây phương. Đứng đầu cánh thân Tây phương này là tả quân Lê Văn Duyệt cùng các tướng lãnh như tiền quân Nguyễn Thành.
Phe thân Trung Hoa là những người Minh Hương đã gia nhập lực lượng của Nguyẽn Ánh để chống Tây Sơn. Người Minh Hương là những người Trung Hoa phục vụ cho nhà Minh xin tỵ nạn chính trị tại Đại Việt khi nhà Thanh diệt nhà Minh. Những người Minh Hương thoạt đầu là những người của tổ chức Thiên Địa Hội có ý chí phản Thanh phục Minh.
Tuy nhiên từ thời Khang Hy trở đi, nhà Thanh đã bắt đầu bị đồng hoá vào Trung Hoa và Khang Hy bắt đầu những chính sách kinh tế, chính trị làm cho Trung Hoa càng ngày càng phồn thịnh và phát huy văn hoá Trung Hoa lên cao độ. Do đó, ý chí phục Minh của những người Minh Hương không còn nữa. Sau hơn 100 năm sống ở Đại Việt, những người Hoa kiều nầy trở thành một bộ phận của dân tộc nhưng họ vẫn có những mối quan hệ chặt chẽ với mẫu quốc Trung Hoa. Tại Việt Nam lúc bấy giờ người Minh Hương trở thành một lực lượng có xu huớng thân Trung Hoa trong triều Gia Long.
Ðứng đầu lực lượng nầy là Trịnh Hoài Ðức, Lê Quang Ðịnh và Ngô Nhơn Tịnh. Ba ngưòi nầy là học trò xuất sắc của một nhà thâm nho gốc Minh Hương là Võ Trường Toản và cả ba được người đương thời gọi là Gia Định Tam Hùng. Cả ba đều tham gia hoạt động phò Nguyễn Ánh từ năm 1788.
Khi Gia Long lên ngôi, Trịnh Hoài Ðức được bổ nhiệm làm thượng thư bộ lại kiêm bộ hình và phó tổng tài Quốc Sử Quán. Lê Quang Ðịnh được làm Binh Bộ thượng thư, tương đương với bộ trưởng quốc phòng ngày nay. Ngô Nhơn Tịnh sau được thăng Công Bộ thượng thư. Cả ba ông đều dóng những vai trò quan trọng trong mối quan hệ ngoại giao với Trung Hoa.
Nhưng vai trò quan trọng nhất của Trịnh Hoài Ðức là được vua Gia Long ủy thác để dạy dỗ cho hoàng tử Ðảm. Hoàng tử Ðảm sau lên ngôi lấy hiệu là Minh Mạng.
Hai xu hướng thân Tây phương và thân Trung Hoa trong triều Gia Long xung đột gay gắt về vấn đề kế vị hoàng tử Cảnh sau khi hoàng tử qua đời. Khi Trịnh Hoài Đức thuyết phục được Gia Long phế dòng trưởng lập dòng thứ, vua Gia Long đã chọn Minh Mạng làm người kế vị. Khi Minh Mạng lên ngôi, dưới ảnh hưởng của Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định và Ngô Nhơn Tịnh, Việt Nam đã nghiêng hẳn theo mô hình Nho giáo của Thanh triều (Thanh Nho) để phát triển đất nước.
Sau khi phe thân Trung Hoa tạo được ưu thế trong triều đình thì thanh trừng bắt đầu xuất hiện. Tiền quân Nguyễn Thành, tổng trấn Bắc Thành, đã bị gièm pha đến phải uống thuốc độc tự vẫn thời Gia Long. Sau khi lên ngôi, Minh Mạng (1820-1840) triệt hạ dòng dõi của hoàng tử Cảnh bằng cách xử tử vợ và người con trưởng của hoàng tử Cảnh, giáng ngưòi con thứ làm thường dân.
Đối với Lê Văn Duyệt, Minh Mạng chưa dám làm gì và vẫn cho làm tổng trấn Gia Định Thành. Khi Minh Mạng ban hành lệnh cấm đạo thì Lê Văn Duyệt tại Gia Định vẫn chủ trương thân Tây phương và không thực hiện lệnh cấm đạo. Khi Lê Văn Duyệt qua đời, con nuôi là Lê Văn Khôi nổi dậy chống triều đình với sự giúp đỡ của một số người Tây phương trong đó có một linh mục Công giáo. Khi cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi bị dẹp tan thì Minh Mạng mới kết án Lê Văn Duyệt, tước hết các chức vụ và cho xiềng lăng của ông bằng xích sắt.
Về phương diện ngoại giao, Minh Mạng cho giảm dần quan hệ với Tây phương. Những ngườì Pháp làm việc với Gia Long chán nản bỏ về nước. Với những người Minh Hương thân Trung Hoa cầm nắm vận mạng của triều đình, Minh Mạng đã thi hành một loạt các chính sách ngoại giao đi ngược với đưòng lối của Gia Long. Từ một nền chính trị ngoại giao khai phóng của Gia Long với những quan hệ rộng rãi với các quốc gia trên thế giới, Minh Mạng và các vua kế vị Thiệu Trị (1841-1847) và Tự Đức (1848-1883) cùng triều đình thân Trung Hoa đã bắt đầu một nền chính trị cục bộ, thiển cận với chính sách bế môn toả cảng, đoạn tuyệt với Tây phương, ban hành lệnh cấm đạo.
Mê văn chương xao nhãng quân sự
Do ảnh hưởng của Thanh Nho, triều đình nhà Nguyễn từ Minh Mạng trở đi chỉ chú trọng đến văn chương thi phú biền ngẫu, đi theo con đường trọng văn và xao lãng vấn đề quân sự và quốc phòng.
Ðây là lý do, sau khi Gia Long băng hà, sức mạnh quân sự của triều Nguyễn suy giảm hẳn. Khi các tướng lãnh thuộc thế hệ Gia Long qua đời, các tướng lãnh thế hệ kế thừa không đủ tài thao lược để thực hiện chính sách quốc phòng hữu hiệu.
Lực lượng quân sự của Trương Minh Giảng không đủ khả năng duy trì guồng máy cai trị ở Nam Vang. Và Trương Minh Giảng đã bị người Miên đánh đuổi về nước dưới triều Thiệu Trị.
Đến thời kỳ Tự Đức, xu hướng thân Trung Hoa hoàn toàn nắm trọn quyền trong triều đình. Sự kiện này được xác định khi triều đình họp nhau bác bỏ bản điều trần canh tân đất nước của Nguyẽn Trường Tộ. Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) là một nho sĩ theo đạo Thiên Chúa. Ông nổi tiếng thông minh và hay chữ, được người đời gọi là Trạng Tộ. Ông cũng thông thạo nhiều ngôn ngữ Tây phương.
Ông làm thông ngôn cho các giáo sĩ Thiên Chuá trong việc truyền đạo tại Việt Nam. Sau một thời gian đi chu du thế giới, đặc biệt là Pháp và Ý, ông trở về Việt Nam dành mấy năm trời đem tâm huyết của một người yêu nước viết nhiều bản điều trần cải cách và canh tân đất nước dâng lên Tự Đức. Nhưng triều đình Tự Đức với đầu óc cổ hủ của Thanh Nho không đủ tầm nhìn để hiểu được những thế lớn đang bùng ra trong thiên hạ thời bấy giờ. Sau hoàng tử Cảnh năm mươi năm, Việt Nam đã mất đi cơ hội phát triển một lần nữa khi triều đình nhà Nguyễn quay mặt trưóc những yêu cầu canh tân của Nguyễn Trường Tộ.
Điều bất hạnh hơn cho dân tộc là lúc ấy giáo điều Thanh Nho đã bắt đầu rã mục. Triều đình nhà Thanh đang trên đà phá sản. Năm 1839 chiến tranh Nha Phiến bùng nổ, nhà Thanh phải ký các hiệp ước biên giới nhượng đất cho Anh và Pháp. Với hiệp ước Nam Kinh, Anh chính thức chiếm đóng Hương Cảng năm 1842.
Với hiệp ước Hoàng Phố 1844, Pháp chính thức đặt chân lên lãnh địa Trung Hoa. Ở mạn bắc, năm 1850 quân đội của Nga Hoàng tràn xuống Hắc Long Giang chiếm đóng Mãn Châu, quê hương của nhà Thanh. Từ 1854 đến 1860, Hồng Tú Toàn và phong trào Thái Bình Thiên Quốc đã chiếm gần một nửa Trung Hoa. Cuối cùng, cuộc cách mạng Tân Hợi 1911 của phong trào cách mạng Quốc Dân Đảng dưới sự lãnh đạo của Tôn Văn đã lật đổ triều đình phong kiến Mãn Thanh để xây dựng chế độ Cộng Hoà.
Trong khi đó, triều đình nhà Nguyễn vẫn còn như mơ ngủ. Sau khi Pháp chiếm Nam Kỳ năm 1860, tức là 20 năm sau khi nhà Thanh bị liệt cường xâu xé và đang dãy chết, triều đình Tự Đức vẫn còn cho người sang Trung Hoa cầu viện. Những tiếng nói đòi cải cách của các sĩ phu yêu nước như Nguyễn Trường Tộ, Bùi Viện, Nguyễn Lộ Trạch trở thành nổi trăn trở kéo dài hàng thế kỷ của nhiều thế hệ.
Ý hệ Thanh Nho làm triều đình nhà Nguyễn u mê đến nổi không thấy được một thế giới mới đang ra đời với cuộc cách mạng kỹ nghệ đang đẩy xã hội Tây phương lên đỉnh cao của sự phát triển. Và cuộc cách mạng kỹ nghệ đó làm thay đổi cục diện thế giới, cùng lúc làm thay đổi lịch sử nước Việt.
Khi Pháp tấn công Nam Kỳ thì triều đình hoàn toàn không có đủ năng lực quân sự và chiến lược quốc phòng để đối phó. Những võ tướng uy tín trong triều như Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản (cũng gốc người Minh Hương) dù thừa khí phách của nho gia nhưng không đủ tài thao lược quân sự để lãnh đạo cuộc chiến tranh chống xâm lược. Khi Pháp chiếm Sài Gòn thì súng ống và đạn dược của quan quân Triều đình có rất nhiều nhưng quân đội ô hợp không có khả năng chống trả quân xâm lăng. Hậu quả tất nhiên là đất nước đã mất vào tay thực dân.
Với Hoà Ước Nhâm Tuất 1862 và hoà ước Patenôtre 1884, công cuộc thống nhất đất nước của Gia Long được coi như cáo chung. Việt Nam bước qua trang sử mới, đó là trang sử nô lệ. Và sau 1000 năm giành được độc lập từ Trung Hoa thời Ngô Quyền, nước Đại Việt lại một lần nữa mất quyền tự chủ.
Cái nhục mất nước, tụt hậu của dân tộc Đại Việt ở thế kỷ 19 phát xuất từ nhiều yếu tố lịch sử khác nhau.
Thế nhưng sự chọn lựa mô hình phát triển đất nước, sự ỷ dốc vào Thanh triều trên mặt trận ngoại giao và văn hoá thời kỳ hậu Gia Long, chính sách giao thương phụ thuộc kinh tế Trung Hoa và sự tin tưởng mù quáng vào giáo điều Thanh Nho bất chấp các bản điều trần yêu cầu canh tân của các sĩ phu tiến bộ, là những yếu tố quyết định đưa đất nước vào giai đoạn nô lệ.
Ngày nay, nếu thay giao điều Thanh Nho bằng giáo điều Mao, thì tình trạng Việt Nam gần như tương tự.
(Bài thể hiện quan điểm riêng của Luật sư Nguyễn Xuân Phước và đã được đăng trên Tuần san Trẻ Dallas, Texas, Hoa Kỳ.)