Thứ Bảy, 2 tháng 5, 2015

Có Một Người Vừa Ra Đi Đêm Nay….

GNA Hoài Niệm Về Nhạc Sĩ Trúc Phương – Thiên Tài và Nạn Nhân của Định Mệnh
(Liên Khúc Mưa Nửa Đêm – Tàu Đêm Năm Cũ – Nửa Đêm Ngoài Phố…
https://www.youtube.com/watch?v=3VuVcgzfY0Y)

Buồn vào hồn không tên
Tác Giả: Tưởng Năng Tiến – Việt Báo – 25 April 2015

Có lần, tôi nghe giáo sư Nguyễn Văn Lục phàn nàn: “Người cộng sản có một sự sắp xếp rất máy móc, đơn giản về con người và sự việc. Hoặc họ coi là bạn, hoặc là kẻ thù của họ. Miền Nam sau 1975 có chiến dịch đi ‘tìm thù’ và biến miền Nam thành mảnh đất hung bạo với những ngữ từ quen thuộc như: Quét sạch, đánh phá, truy lùng, tố cáo.”

Gần bốn mươi năm sau, sau cái chiến dịch “tìm thù” bắt đầu từ năm 1975, có bữa tôi đang ngồi lơ tơ mơ hút thuốc thì chuông điện thoại reo:
- Tiến hả?
- Dạ…
- Vũ Đức Nghiêm đây…
- Dạ…
- Anh buồn quá Tiến ơi, mình đi uống cà phê chút chơi được không?
- Dạ … cũng được!
Tôi nhận lời sau một lúc tần ngần nên tuy miệng nói “được” mà cái giọng (nghe) không được gì cho lắm. Tôi cũng thuộc loại người không biết làm gì cho hết đời mình nên thường rảnh nhưng không rảnh (tới) cỡ như nhiều người trông đợi. Sống ở Mỹ, chớ đâu phải Mỹ Tho mà muốn đi đâu thì đi, và muốn đi giờ nào cũng được – mấy cha?

Khi Mai Thảo và Hoàng Anh Tuấn còn trên dương thế, thỉnh thoảng, tôi cũng vẫn nghe hai ông thở ra (“anh buồn quá Tiến ơi”) y chang như thế. Chỉ có điều khác là ông nhà văn khi buồn thì thích đi uống rượu, ông thi sĩ lúc buồn lại đòi đi … ăn phở, còn bây giờ thì ông nhạc sĩ (lúc buồn) chỉ ưa nhâm nhi một tách cà phê nóng. Ai sao tui cũng chịu, miễn đến chỗ nào (cứ) có bia bọt chút đỉnh là được!

Vũ Đức Nghiêm sinh sau Mai Thảo và trước Hoàng Anh Tuấn. Ông chào đời vào năm 1930. Hơn 80 mùa xuân đã (vụt) trôi qua. Cả đống nước sông, nước suối – cùng với nước mưa và nước mắt – đã ào ạt (và xối xả) chảy qua cầu, hay trôi qua cống. Những dịp đi chơi với ông (e) sẽ cũng không còn nhiều lắm nữa. Tôi chợt nghĩ như thế khi cho xe nổ máy.

Quán cà phê vắng tanh. Nhạc mở nhỏ xíu nhưng tôi vẫn nghe ra giai điệu của một bài hát rất quen:

Gọi người yêu dấu bao lần.
Nhẹ nhàng như gió thì thầm.
Làn mây trôi gợi nhớ chơi vơi thương người xa xôi.
Gọi người yêu dấu trong hồn.
Ngập ngừng tha thiết bồn chồn.
Kỷ niệm xưa mơ thoáng trong sương cho lòng nhớ thương…

- Hình như là nhạc Vũ Đức Nghiêm … Anh nghe xem có đúng không? Tôi đùa.
- Em nói nghe cái gì?
- Anh thử nghe nhạc coi…
- Nhạc của ai?
Tôi chợt nhớ ra là ông anh đã hơi nặng tai nên gọi cô bé chạy bàn:
- Cháu ơi, người ngồi trước mặt chúng ta là tác giả của bản nhạc Gọi Người Yêu Dấu mà mình đang nghe đó. Cháu mở máy lớn hơn chút xíu cho ổng … sướng nha!
Thấy người đối diện có vẻ bối rối vì cách nói vừa dài dòng, vừa hơi quá trịnh trọng của mình nên tôi cố thêm vào một câu tiếng Anh (vớt vát) nhưng ngó bộ cũng không có kết quả gì. Đúng lúc, chủ quán bước đến:
- Cháu nó mới từ Việt Nam sang, ông nói tiếng Mỹ nó không hiểu đâu. Ông cần gì ạ?
- Dạ không, không có gì đâu. Never mind!

Tôi trả lời cho qua chuyện vì chợt nhận ra sự lố bịch của mình. Cùng lúc, bản nhạc của Vũ Đức Nghiêm cũng vừa chấm dứt. Tôi nhìn anh nhún vai. Vũ Đức Nghiêm đáp lại bằng một nụ cười hiền lành và … ngơ ngác!

Tự nhiên, tôi thấy gần và thương quá cái vẻ ngơ ngác (trông đến tội) của ông. Tôi cũng bị nhiều lúc ngơ ngác tương tự trong phần đời lưu lạc của mình. Bây giờ hẳn không còn ai, ở lứa tuổi hai mươi – dù trong hay ngoài nước – còn biết đến tiếng “Gọi Người Yêu Dấu” (“ngập ngừng tha thiết bồn chồn”) của Vũ Đức Nghiêm nữa. Thời gian, như một giòng sông hững hờ, đã vô tình bỏ lại những bờ bến cũ.

Vũ Đức Nghiêm, tựa như một cây cổ thụ hiếm hoi, vẫn còn đứng lại bơ vơ bên bờ trong khi bao nhiêu nhạc sĩ cùng thời đều đã ra người thiên cổ. Trúc Phương là một trong những người này.

Qua chương trình Bảy Mươi Năm Tình Ca Trong Tân Nhạc Việt Nam, nhà phê bình âm nhạc Hoài Nam đã cho biết nhiều chi tiết vô cùng thê thiết về cuộc đời của người viết nhạc (chả may) này.

Trang sổ tay hôm nay, chúng tôi xin được nắn nót ghi lại đây những nhận xét của Hoài Nam, và mong được xem như một nén hương lòng (muộn màng) gửi đến một người đã khuất:

“Trúc Phương là một trong những nhạc sĩ gốc miền Nam được yêu mến nhất, từng được mệnh danh là ông vua của thể điệu Bolero tha thiết trữ tình. Ông tên thật là Nguyễn Thiện Lộc, ra chào đời năm 1939 tại xã Mỹ Hoà, quận Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh, tức Vĩnh Bình – một xứ Chùa Tháp thu nhỏ ở vùng hạ lưu sông Cửu Long…”

“Nhạc của Trúc Phương thường buồn, rất buồn. Trong số những ca khúc của ông, hình như, chỉ có hai bản vui. Đó là: Tình Thắm Duyên Quê và Chiều Làng Em. Riêng bản Chiều Làng Em nói rằng vui là so sánh với những sáng tác khác của ông. Chứ Thực ra, bản nhạc này tuy có nội dung êm đềm trong sáng nhưng giai điệu của nó cũng man mác buồn. Không hiểu vì cuộc đời của Trúc Phương vốn nhiều chuyện buồn và đã được ông gửi gấm vào dòng nhạc hay vì ông thích sáng tác nhạc buồn nên riết rồi nó ám vào người, chỉ biết những sáng tác phổ biến nhất, nổi tiếng nhất của ông đều là những ca khúc buồn: Chiều Cuối Tuần, Nửa Đêm Ngoài Phố, Tầu Đêm Năm Cũ, Bóng Nhỏ Đường Chiều…”

Tháng Tư năm 1975, Trúc Phương bị kẹt lại. Năm 1979, ông vượt biên nhưng bị bắt và bị tù. Sau khi được thả, cuộc sống của ông trở nên vô cùng thê thảm về thể xác vật chất cũng như tinh thần. Trong một đoạn video phỏng vấn ông, được Trung Tâm Asia phổ biến tại hải ngoại, Trúc Phương cho biết:
.
“Sau cái biến cố cuộc đời, tôi sống cái kiểu rày đây mai đó, ‘bèo dạt hoa trôi’…Nếu mà nói đói thì cũng không đói ngày nào, nhưng mà no thì chẳng có ngày nào gọi là no… Tôi không có cái mái nhà, vợ con thì cũng tan nát rồi, tôi sống nhà bạn bè, nhưng mà khổ nổi hoàn cảnh họ cũng bi đát, cũng khổ, chứ không ai đùm bọc ai được… đến nửa lúc đó thì vấn đề an ninh có khe khắc, lúc đó thì bạn bè tôi không ai dám chứa tôi trong nhà cả, vì tôi không có giấy tờ tùy thân, cũng chẳng có thứ gì trong người cả. Tôi nghĩ ra được một cách… là tìm nơi nào mà có khách vãng lai rồi mình chui vào đó ngủ với họ để tránh bị kiểm tra giấy tờ…

Ban ngày thì lê la thành phố, đêm thì phải ra xa cảng thuê một chiếc chiếu, 1 chiếc chiếu lúc bấy giờ là 1 đồng… thế rồi ngủ cho tới sáng rồi xếp chiếc chiếu trả người ta… thế là mình lấy 1 đồng về…. như là tiền thế chân… Một năm như vậy, tôi ngủ ở xa cảng hết 9 tháng… Mà nói anh thương… khổ lắm…. Hôm nào mà có tiền để đi xe lam mà ra sớm khoảng chừng năm giờ có mặt ngoài đó thế rồi thuê được chiếc chiếu trải được cái chỗ lịch sự chút tương đối vệ sinh một tí mà hôm nào ra trễ thì họ chiếm hết rồi, những chỗ sạch vệ sinh họ chiếm hết rồi , tôi đành phải trải chiếu gần chỗ ‘thằng cha đi tiểu vỉa hè’, thế rồi cũng phải nằm thôi.Tôi sống có thể nói là những ngày bi đát… mà lẽ ra tôi nên buồn cho cái hoàn cảnh như thế nhưng tôi không bao giờ buồn … Tôi nghĩ mà thôi, còn sống cho tới bây giờ và đó cũng là một cái chất liệu để tôi viết bài sau này…”

Chất liệu, rõ ràng, đã có (và có quá dư) nhưng cơ hội để Trúc Phương viết bài sau này (tiếc thay) không bao giờ đến – vẫn theo như lời của nhà phê bình âm nhạc Hoài Nam:

“Vào một buổi sáng năm 1996, Trúc Phương không bao giờ thức dậy nữa. Ông đã vĩnh viễn ra đi. Tất cả gia tài để lại chỉ là một đôi dép nhựa dưới chân. Thế nhưng xét về mặt tinh thần Trúc Phương đã để lại cho chúng ta một di sản vô giá.”

“Chúng ta ở đây là những người yêu nhạc, trong nước cũng như hải ngoại, bên này cũng như bên kia chiến tuyến. Bởi vì hơn ba mươi ca khúc nổi tiếng của ông cho dù có một hai bài có nhắc đến chữ ‘cộng hoà’ vẫn phải được xem là những tình khúc viết cho những con người không phải cho một chế độ chính trị nào. Những con người sinh ra và lớn lên trong một cuộc chiến không lối thoát với niềm khắc khoải chờ mong một ngày thanh bình. Cuối cùng thanh bình đã tới nhưng không phải là thứ thanh bình mà những ‘con tim chân chính’ trong nhạc của Lê Minh Bằng hằng mơ ước mà là thứ thanh bình của giai cấp thống trị, của một thiểu số may mắn nào đó. Chính cái thanh bình ấy đã cướp đi bao nhiêu sinh mạng trong đó có người Việt Nam xấu số đáng thương tên Nguyễn Thiện Lộc, tức nhạc sĩ Trúc Phương nổi tiếng của chúng ta.”

Thôi thì cũng xong một kiếp người! Và dòng đời, tất nhiên, vẫn cứ lạnh lùng và mải miết trôi. Sáng nay, tôi lại chợt nhớ đến Trúc Phương sau khi tình cờ đọc được một mẩu tin ngăn ngắn – trên báo Pháp Luật số ra ngày 1 tháng 2 năm 2012:

“Ngày 31-1, một số cán bộ hưu trí, người dân ở phường Bình Hưng Hòa B (quận Bình Tân, TP.HCM) bức xúc phản ánh cuộc họp mặt đầu năm do phường tổ chức … Ngay phần khai mạc lúc gần 9 giờ sáng, trên nền nhạc hip hop, hai phụ nữ ăn mặc hở hang, thiếu vải lên nhún nhảy, múa những động tác khêu gợi. Hai thanh niên múa phụ họa. Quan sát đoạn video chúng tôi thấy nhiều cán bộ hào hứng xem tiết mục ‘lạ mắt’ này. Có cán bộ còn dùng điện thoại quay lại cảnh hai cô gái biểu diễn, ưỡn người và ngực về phía khán giả. Nhiều người tham gia rất hào hứng, chỉ trỏ, thì thầm vào tai nhau…

“Chúng tôi tiếp tục liên lạc với bà Nguyễn Thị Bích Tuyền, Phó Chủ tịch phường kiêm Chủ tịch Công đoàn phường … bà Tuyền lý giải: ‘Tiết mục múa chỉ diễn ra gần 3 phút và đây là vũ điệu theo phong cách Hawaii nên hơi lạ…”

Nếu ngay sau khi chiếm được miền Nam mà quí vị cán bộ cộng sản cũng có được cách “lý giải” tương tự thì thì Mai Thảo, Hoàng Anh Tuấn … đã không phải bỏ thân nơi đất lạ. Vũ Đức Nghiêm cũng đã tránh được những giây phút bơ vơ, ngơ ngác, lạc lõng ở xứ người. Và Trúc Phương thì chắc chắn vẫn sẽ còn ở lại với chúng ta, vẫn có những đêm khắc khoải buồn vào hồn không tên, thay vì nằm chết cong queo trong đói lạnh – trên một manh chiếu rách– với tài sản duy nhất còn lại chỉ là một đôi dép nhựa.

Mọi cuộc cách mạng luôn luôn có cái giá riêng của nó. Riêng cái thứ cách mạng (thổ tả) của những người cộng sản thì đòi hỏi mọi người đều phải trả cái giá (hơi) quá mắc mà thành quả – xem ra – không có gì, ngoài tộc ác! (tnt)

Anh hùng trổ nóc

Nguồn : Vững Đại Phát 
Anh hùng trổ nóc
Tác Giả: Nguyễn Xuân Nghĩa – Người Việt – 27 April 2015
John le Carré là nhà văn khét tiếng về truyện gián điệp sau khi phục vụ ngành tình báo của Anh. Sau năm 1963, cuốn “The Spy Who Came in from the Cold” đưa ông lên đài danh vọng và ông rời cơ quan MI6 để thành nhà văn toàn thời.
Sau đấy, bộ truyện về mấy chục năm đấu trí giữa trùm tình báo George Smiley của Anh với đối thủ là Karla của Liên Bang Xô Viết là pho sách ba cuốn ly kỳ cho người thích đọc truyện gián điệp theo lối nghiêm và buồn, chứ không để giải trí như với điệp viên James Bond của Ian Fleming.
Nhưng vì sao trong một bài bình luận vào dịp 30 Tháng Tư, người viết lại nhớ tới John le Carré?
Vì trong pho truyện ba cuốn, về sau in thành một tập gần ngàn trang, tác giả có nhắc đến biến cố này ở cuốn thứ nhì, The Honourable School Boy, xuất bản năm 1977. Một nhân vật trong truyện dí dỏm so sánh việc Mỹ tháo chạy khỏi Việt Nam như một thanh niên trổ nóc khỏi ổ điếm khi cảnh sát truy lùng!
Như nhiều trí thức uyên bác của Anh, John le Carré không đánh giá cao đệ nhất siêu cường. Quá trẻ trung và hung hăng. Người viết này thấy thú vị nên nhớ mãi ẩn dụ trổ nóc. Không phải là người dân Việt khốn khổ trên mấy bậc thang cuối của sân thượng tòa đại sứ Hoa Kỳ mà là một thanh niên bảnh bao như cậu ấm John Kennedy…
***
Người ta có nhiều cách lý giải sự thất bại của nước Mỹ tại Việt Nam.
Trước hết, Hoa Kỳ đã thất bại tại Việt Nam, chứ không nên luận giải rằng thua me gỡ bài cào, Hoa Kỳ có mưu lớn cho một mục tiêu trường kỳ. Nói vậy thì vẫn chưa khỏi bệnh phục Mỹ.
Theo định nghĩa của Ngũ Giác Đài, Hoa Kỳ tham dự cuộc chiến Việt Nam từ Mùng Một tháng 11 năm 1955 cho tới khi mọi chuyện ngã ngũ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, dù các đơn vị tác chiến Mỹ đã ra khỏi Việt Nam từ năm 1973, sau Hiệp Định Paris ngày 27 tháng 1 năm đó. Từ 1955 đến 1964, Hoa Kỳ đã viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa về kinh tế lẫn quân sự là ba tỷ 300 triệu đô la. Từ 1965 đến 1975 là 22 tỷ. Tổng cộng là hơn 25 tỷ đô la trong hai chục năm. Và Hoa Kỳ mất hơn 58 ngàn thanh niên trai tráng.
Kết quả là miền Nam rơi vào chế độ cộng sản và đến nay, 40 năm sau, vẫn chưa có tự do. Kết quả là từ 1975, mỗi khi Mỹ can thiệp về quân sự ở bất kỳ nơi nào, thiên hạ lại cảnh báo “coi chừng lại là một Việt Nam nữa.” Kết quả là nhiều quốc gia không còn tin vào nước Mỹ và nhiều đối thủ thì hết sợ, từ Iran năm 1979 đến khủng bố al-Qaeda sau này.
Sau những hứa hẹn, cam kết và tổn thất mọi mặt mà đạt kết quả ấy thì đấy là định nghĩa của thất bại. Vì sao lại như vậy?
***
Vì nhiều lý do lắm. Nhìn từ bên ngoài thì đây là vài lý do đáng ngẫm…
Từ khi quan tâm đến Đông Nam Á vào tàn cuộc của Thế Chiến II, Hoa Kỳ có nhiều mục tiêu dời đổi với Đông Dương và Việt Nam, một vùng đất mà lãnh đạo Mỹ chửa biết là gì. Mỗi khi họ đổi mục tiêu lại áp dụng chiến lược và chánh sách khác, thường thì đơn phương, chẳng báo trước. Từ các tổng thống Roosevelt tới Truman, Eisenhower, Kennedy, Johnson rồi Nixon, Hoa Kỳ có ít ra năm lần thay đổi về chánh sách, khi thì giải thực, khi thì lập tiền đồn be bờ Cộng Sản tại Đông Nam Á, khi thì xây dựng dân chủ, lúc lại kết ước với Trung Quốc, v.v…
Khi nhập cuộc, Hoa Kỳ tự chuẩn bị cho cuộc chiến quy ước cũ, chiến tranh Cao Ly 1950-1953, mà không ý thức được hình thái chiến tranh toàn diện, kết hợp khủng bố với tuyên truyền, khuynh đảo, phá hoại, nổi dậy và sau cùng là trận địa chiến. Hoa Kỳ “Mỹ hóa” cuộc chiến Nam, tổ chức lại quân lực Việt Nam cho hình thái chiến tranh không thích hợp với thực tế của một chiến trường muôn mặt. Vào trận rồi, 12 năm sau là 1962 Hoa Kỳ mới có chiến lược và tổ chức cho cuộc chiến kết hợp quân sự với chính trị. Và 10 năm sau lại “Việt hóa” cuộc chiến, cho tới ngày trổ nóc.
Một lý do thất trận đầu tiên của Mỹ là… quân sự.
Hoa Kỳ tốn kém rất nhiều để be bờ ngăn chặn và ào ạt oanh tạc miền Bắc mà không hiệu quả, cho đến khi biết sử dụng “bom khôn,” từ tháng 4 năm 1972. Đấy là bước ngoặt có thể dẫn tới đại thắng. Nhưng khi ấy, dân Mỹ đã nản chí và lãnh đạo phất cờ cho mục tiêu khác.
Lý do thất trận thứ hai là chính trị.
Khế dễ hiểu. Sơ đẳng là Hoa Kỳ đặt ra tiêu chuẩn khác biệt cho hai miền Nam Bắc.
Lần đầu tiên mới có độc lập trên phân nửa lãnh thổ sau 80 năm thực dân và 10 năm chinh chiến, miền Nam phải có dân chủ! Đấy là một nguyên tắc mà Hoa Kỳ mất gần 200 năm mới tạm hoàn thành, từ 1789 đến 1965. Sự phán xét thiên lệch của truyền thông nông cạn tác động ngược vào dư luận và Quốc Hội khiến Mỹ không thể kéo dài cuộc chiến. Trong khi đó, miền Bắc được chấm một lần, rồi thôi, là cộng sản độc tài, cho nên những chuyện phi nhân nhất cũng vẫn là hợp lý, chẳng đáng nói.
Ngày nay, nhận thức thiên lệch đến bất công ấy vẫn chưa dứt.
Lý do thất trận thứ ba là kinh tế.
Hơi lạ từ một siêu cường kinh tế!
Sau khi tổ chức lại quân đội của miền Nam theo nhận thức nông nổi của mình, Hoa Kỳ tổ chức lại nền kinh tế qua hai kế hoạch viện trợ. Chương trình viện trợ thương mại CIP (Commercial hay Commodity Import Program) là một áp dụng của kế hoạch Marshall để tái thiết Âu Châu sau Thế Chiến II. Khi ấy, Âu Châu là các nước đã công nghiệp hóa, không bị chiến tranh toàn diện như miền Nam bất ổn và chưa phát triển. Đem kế hoạch viện trợ ấy cho Việt Nam dẫn tới hậu quả trái ngược với mục tiêu.
Quốc gia cầu viện là Việt Nam phải tiêu thụ nhiều thì mới có tiền cho ngân sách quốc gia. Trong thời chiến, chỉ có thành thị và vài vùng ổn định mới có khả năng tiêu thụ ấy, khiến xã hội vỡ đôi, với thành phố phồn thịnh và nông thôn rách nát. Việc lính Mỹ gia nhập ồ ạt và viện trợ dồi dào còn dẫn đến nạn buôn lậu đồ PX và tham nhũng từ các tổ chức cấp viện của Mỹ ra tới bên ngoài. Ống kính truyền thông chụp lấy, phóng về cho Quốc hội mù lòa một hình ảnh lệch lạc của miền Nam.
Chương trình kia, PL 480 hay Nông Phẩm Phụng Sự Hòa Bình, là một sự phi lý khác.
Hoa Kỳ kết hợp mục tiêu bảo vệ nông gia ở nhà với mục tiêu an ninh chiến lược ở ngoài: Mua nông sản như ngô bắp thóc gạo hay bông vải của họ để viện trợ các nước đồng minh. Quốc gia cầu viện dùng tiền đó tài trợ ngân sách quốc phòng. Nhưng theo luật Mỹ, nền kinh tế không được chế biến các sản phẩm viện trợ để cạnh tranh với doanh nghiệp Mỹ tại Việt Nam hay bất kỳ nơi nào khác.
Chưa nói đến yếu tố an ninh, cái khung viện trợ ấy cản trở sự hình thành của kỹ nghệ nội địa. Giải pháp tạm bợ đành là “thay thế nhập cảng,” một thời được coi là chân lý kinh tế.
Nam Hàn và Đài Loan ý thức được nhược điểm của viện trợ Mỹ nên tìm cách giải thoát và thoát được vì họ không bị chiến tranh khuynh đảo ngay trong lãnh thổ. Việt Nam thì không. Khi Mỹ cố tình cúp viện trợ thì phải sụp đổ. Lại còn bị Quốc Hội Mỹ nhục mạ với sự phụ họa của báo chí.
Ngày chín tháng 4 năm 1974, Tổng Thống Richard Nixon từ chức để khỏi bị bãi chức vì vụ Watergate. Một quyết định sau cùng của ông là ký đạo luật viện trợ quân sự cho miền Mam một tỷ đô la cho 11 tháng sắp tới. Ngay sau khi ông từ chức, Hạ Viện cắt luôn thành 700 triệu, rồi 500 triệu. Miền Nam được trao trọn gói cho miền Bắc. “Cho thỏa lòng mơ bạn Bắc Kinh.”
Kết luận?
Khi chàng trai trổ nóc, nàng Kiều dại có khóc cũng thừa