Nguồn : Vững Đại Phát
Ngọc Khanh – Nguồn tin: ĐTCK | 29/08/2014
Quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ điền đầy khoảng trống giữa nguồn tài chính cung cấp bởi các ngân hàng và bởi TTCK. Ông Nguyễn Thành Long, Phó chủ tịch UBCKNN trao đổi với phóng viên TBNH.
Theo ông, Việt Nam có khả năng thu hút sự quan tâm của các quỹ đầu tư vốn cổ phần (Private Equity – PE), hay đầu tư mạo hiểm (Venture Capital – VC)?
Tại Việt Nam, đầu tư mạo hiểm là hình thức đầu tư còn khá mới mẻ. Ngoài một số quỹ nước ngoài đang hoạt động thì chúng ta vẫn chưa có quỹ đầu tư mạo hiểm trong nước.
Lịch sử phát triển các quỹ đầu tư PE/VC tại Mỹ cho thấy, có hai thời kỳ mà các quỹ này đóng vai trò trọng yếu, thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Thời kỳ thứ nhất là giai đoạn bùng nổ trong lĩnh vực công nghệ cao tại Mỹ vào những năm 1970, cùng với sự phát triển vượt bậc của “Thung lũng Silicon” dựa trên ba trụ cột: sáng kiến và tài năng cá nhân; vận dụng hiệu quả nghiên cứu khoa học; và vốn. Thời kỳ thứ hai là vào những năm 80, khi các hoạt động mua bán sáp nhập (M&A) DN phát triển. Rất nhiều công ty lớn của Mỹ với phương pháp quản lý không hiệu quả đã phải thanh lý, phá sản, giải phóng một lượng lớn tài sản và vốn ứ đọng vào tay các quỹ đầu tư.
Với những điều kiện, hoàn cảnh tương đồng, Việt Nam đã và đang hội tụ đầy đủ những yếu tố để thúc đẩy sự phát triển và hoạt động của các quỹ đầu tư PE/VC. Theo ước tính của Tổng cục Thống kê, tổng số lượng các DN theo đăng ký kinh doanh đến nay là trên 600.000 DN, trong đó khoảng 350.000 DN đang hoạt động. Trong đó, một số lượng khá lớn các DNNN đã ít nhiều có thương hiệu và vị trí sẽ được sắp xếp, cải tổ lại. Con số này cho thấy nhu cầu vốn để chuyển giao sở hữu, cổ phần hóa là rất lớn và sẽ chỉ có một số lượng nhất định trong số vốn này có thể tiếp cận được qua kênh ngân hàng hoặc từ TTCK.
Vậy, có rào cản nào đối với DN khi muốn tiếp cận nguồn vốn từ các quỹ PE/VC?
Ở phía DN với tư cách người nhận vốn, rào cản đầu tiên để tiếp cận vốn thông thường đến từ việc ý tưởng kinh doanh bị cho là cóp nhặt từ một số các mô hình kinh doanh đã thành công của các nước khác, nhưng không được phân tích và áp dụng đầy đủ cho môi trường kinh doanh tại Việt Nam.
Lý do thứ hai là các DN có thể có ý tưởng kinh doanh tốt nhưng lại thiếu kỹ năng quản trị kinh doanh bài bản. Từ đó dẫn đến việc kết quả hoạt động kinh doanh thiếu khả quan ngay cả khi đã vượt qua giai đoạn “gieo mầm”.
Lý do thứ ba là việc quản trị tài chính và cơ cấu nhân sự yếu. Đặc biệt, trong báo cáo tài chính, số liệu chứng minh cho việc kinh doanh không đầy đủ, có sai sót và bị đánh giá là không đáng tin cậy dẫn đến NĐT dè dặt trong việc rót vốn vào DN.
Ngoài lĩnh vực truyền thống như công nghệ thông tin, truyền thông, công nghệ cao… các quỹ PE/VC có thể mở rộng sang lĩnh vực nào ở Việt Nam?
Các quỹ đầu tư PE/VC trước hết có thể tập trung vào hàng trăm DNNN đang trong quá trình sắp xếp, đổi mới, tái cấu trúc. Thứ hai là các DN tư nhân mới thành lập. Theo báo cáo về thị trường vốn cổ phần khu vực châu Á – Thái Bình Dương của Ernst&Young năm 2013, lựa chọn của các quỹ PE/VC sắp tới có thể kể đến lĩnh vực năng lượng, khai khoáng; công nghiệp và hóa chất; công nghệ và truyền thông; dịch vụ tài chính; hóa sinh; và y tế.
Các quỹ mạo hiểm quốc tế đã có mặt ở Việt Nam, nhưng tới giờ chúng ta vẫn chưa có quỹ PE/VC trong nước. Vậy, lý do là gì?
Điểm khác biệt giữa các quỹ PE/VC và các quỹ đầu tư thông thường chủ yếu tập trung ở các định hướng chính sách và ưu đãi dành cho quỹ này. Các cơ quan quản lý nhìn nhận như một kênh tài chính bổ sung cho kênh tín dụng ngân hàng và kênh huy động vốn trên TTCK. Tuy nhiên, do tính chất rủi ro, thường cần cơ chế ưu đãi để khuyến khích các quỹ PE/VC dành vốn cho phát triển khu vực tư nhân hoặc các đối tượng không thể tiếp cận được với nguồn vốn trên hai thị trường trên.
Ở thời điểm hiện tại, chúng ta đã có quy định về quỹ thành viên với thủ tục thành lập, hoạt động rất gọn nhẹ. Nhưng, việc chưa có các quy định về khái niệm, định nghĩa, định hướng chính sách hay điều kiện hưởng ưu đãi có thể là nguyên nhân khiến chúng ta chưa có các quỹ PE/VC rõ ràng theo thông lệ quốc tế.
Hiện nay, Bộ Khoa học và Công nghệ đang thí điểm xây dựng quỹ đầu tư mạo hiểm để thực hiện Đề án thương mại hóa công nghệ theo mô hình Thung lũng Silicon. Quỹ này chủ yếu là đóng góp từ DN, tổ chức cá nhân, không phải từ nguồn ngân sách Nhà nước. Đây là nỗ lực lớn của Chính phủ để tạo dựng quỹ đi đầu trong việc đầu tư vào khoa học công nghệ và hy vọng sẽ mở ra nhiều cơ hội cho các NĐT.
Xin cảm ơn ông!
Quỹ Đầu Tư Mạo Hiểm – Cứu Cánh Của Các Công Ty Khởi Nghiệp Và Doanh Nghiệp Nhỏ
Theo Saga – 19/02/2015
Trên thế giới hiện nay việc huy động vốn qua rất nhiều kênh khác nhau trong đó có quỹ đầu tư mạo hiểm. Tại Việt Nam hiện nay đã có đấu hiệu phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm VC (Venture Capital) sau một thời gian hoạt động không hiệu quả và nhiều quỹ này rút lui.
Sự cần thiết của quỹ đầu tư mạo hiểm cho doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp mới
Các doanh nghiệp mới thành lập hoặc các doanh nghiệp có quy mô nhỏ rất khó khăn khi tiếp cận các nguồn vốn tín dụng của ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Bởi vì mức rủi ro không thu hồi vốn rất cao.
Tại Việt Nam các doanh nghiệp nhỏ, các doanh nghiệp sản xuất phần mềm rất khó vay vốn từ ngân hàng, nguyên nhân là doanh thu không chắc chắn, tài sản đảm bảo không có, do vậy các doanh nghiệp này nhiều khó khăn vì phải vay nóng với lãi suất cao, thiếu hụt vốn rất khó khăn trong việc duy trì và phát triển.
Đối tượng tiếp cận vốn mạo hiểm hầu hết đều là các công ty đang trong giai đoạn đầu của quá trình hình thành và phát triển, thị phần nhỏ, chưa có thương hiệu, việc đầu tư trong giai đoạn phôi thai chắc chắn sẽ chứa đựng nhiều rủi ro, nhiều công sức nghiên cứu thực hiện và tiếp thị nhưng chưa chắc người tiêu dùng chấp nhận.
Tác động của vốn mạo hiểm
1. Lợi ích trực tiếp của việc tài trợ vốn mạo hiểm đối với nền kinh tế: Các chương trình đầu tư vốn mạo hiểm nhìn chung quan trọng đối với nền kinh tế. Chúng là các kênh tài trợ khác cho doanh nghiệp trong trường hợp không thể tiếp xúc với nợ vay ngân hàng. Nói tóm lại, chúng giúp tạo ra công ăn việc làm, tập trung vốn cho phát triển và mở rộng nền kinh tế, ứng dụng các công nghệ mới và tăng cường tính cạnh tranh toàn cầu như: Tạo vốn; Phát triển và mở rộng kinh tế địa phương; Phát triển công nghệ; Tạo thêm công ăn việc làm; Thích nghi với nhu cầu cạnh tranh trên các thị trường toàn cầu.
2. Lợi ích trực tiếp của việc tài trợ vốn mạo hiểm đối với doanh nghiệp: Các VC cung cấp nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp và thị trường đang hoạt động nhưng thiếu vốn. Nó là một quá trình đóng vai trò chất xúc tác nhằm tăng cường khả năng doanh nghiệp. Ngoài vốn, quá trình của vốn mạo hiểm còn mang lại khả năng chuyên môn về quản lý, cụ thể hóa kế hoạch kinh doanh và thông tin. Đây là điểm khác biệt giữa vốn mạo hiểm và việc tài trợ vốn thông thường: vốn mạo hiểm còn hơn cả việc đầu tư, hơn cả việc tạo dựng sự giàu có cá nhân; nó đang tạo dựng các công ty.
Khả năng chuyên môn hóa về quản lý: Trước khi cung ứng vốn vào một dự án của doanh nghiệp, một nhà đầu tư mạo hiểm đã dành nhiều thời gian và năng lực nghiên cứu khả năng thành công của dự án. Một trong những nhân tố của quá trình đầu tư mạo hiểm là phải đảm bảo rằng một đội ngũ quản lý có đủ năng lực đang nắm quyền hoặc sẽ được thành lập để giải quyết công việc quản lý của công ty. Vốn mạo hiểm được hoạch định để hỗ trợ các doanh nhân và giúp ra quyết định đúng đắn hơn. Các VC tham gia lập kế hoạch chiến lược, phân tích thị trường, định giá rủi/ro lợi nhuận và tăng cường bổ sung vào công tác quản lý.
Kế hoạch kinh doanh: Quy trình trình tham gia vốn mạo hiểm cũng đảm bảo rằng doanh nhân có suy nghĩ đúng đắn và kế hoạch của họ được xây dựng cụ thể với kế hoạch kinh doanh được chuẩn bị đầy đủ rõ ràng.
Thông tin: VC giữ vai trò của người cung cấp thông tin bằng những nỗ lực thu thập thông tin. Họ có khả năng tập hợp thông tin với chi phí thấp hơn các nhà đầu tư
Vì VC thu thập thông tin dựa trên một số lượng lớn các nhà đầu tư, họ có thể tận dụng lợi thế qui mô của các ngành kinh tế.
Họ cũng có lợi thế về qui mô về các ngành kinh tế, cụ thể là tạo lập được một mạng lưới các nguồn thông tin tham khảo, các nhà cung cấp các dịch vụ.
Các VC được lợi khi hiểu biết thêm những lĩnh vực mới, những kỹ năng mới.
Danh tiếng: Vốn mạo hiểm cung cấp cho doanh nghiệp danh tiếng, uy tín, những thứ được xem là một loại tài sản vô hình và rất có giá trị khi giao dịch với khách hàng.
Các loại hình về quỹ đầu tư mạo hiểm
1. Nhà đầu tư “thiên thần” (Angle Investor): Các cá nhân có vốn với kinh nghiệm hoạt động – đầu tư vốn vào một công ty mới khởi sự. Mức đầu tư điển hình là từ $50,000 đến 1,5 triệu. Angel là thành viên trong ban Giám đốc- đóng góp kinh nghiệm cũng như tư vấn cho hoạt động cũa doanh nghiệp.
2. Công ty đầu tư mạo hiểm (Venture Capital firm): Có hình thức là công ty hợp danh với trách nhiệm hữu hạn hoặc các tập đoàn kinh doanh, đầu tư vốn từ $250,000 đến 20 triệu nhằm tạo cơ sở cho bước đầu tư tiếp theo của các công ty tư nhân.
VC là thành viên trong ban Giám đốc, sử dụng kinh nghiệm kinh doanh, khả năng chuyên môn về ngành nghề hoạt động, ý kiến chuyên môn về tài chính và những mối liên hệ để hỗ trợ cho công ty đầu tư.
3. Các tổ chức phát hành riêng lẻ chứng khoán giá trị cao (High-net-worth Pivate Placement): Các công ty cung cấp dịch vụ tài chính tổ chức thành một nhóm bao gồm những cá nhân có rất nhiều tiền. Mức vốn tập trung từ những nguồn này khoảng từ $5 triệu đến $50 triệu.
4. Tổ chức quản lý tài sản (Asset Management): Nhóm khác nhau bao gồm các công ty hợp danh hay tập đoàn kinh doanh quản lý 5 triệu đến 20 tỷ đolla và tập trung vào các chiến lược đầu tư đa dạng hóa với những hàng hóa thuộc thị trường công chúng như cổ phiếu, trái phiếu, hàng hóa tiền tệ.
5. Công ty mua lại cổ phần theo kiểu vay nợ đầu cơ (Leverage Buyout Firms): Công ty hợp danh TNHH hoặc tập đoàn kinh doanh mua được quyền kiểm soát một hãng tư nhân hoặc công chúng, sử dụng vốn của chính mình kết hợp với nợ tài trợ từ ngân hàng. Độ lớn của các giao dịch này dao động từ 1 triệu đến nhiều tỷ đolla.
6. Qũy đầu tư linh hoạt (Hedge Fund): Tồn tại dưới hình thức công ty hợp danh TNHH hoặc tập đoàn kinh doanh thực hiện các hoạt động mua – bán những công cụ thị trường như cổ phiếu, trái phiếu, hàng hóa, tiền tệ vv….; đương đầu với biến động thị trường. Quy mô của các quỹ này nằm trong khoảng từ vài triệu đến nhiều tỷ đolla.
7. Nhà kinh doanh ngắn hạn (Traders)
Các công ty con (chi nhánh) thuộc các công ty sell-side (ngân hàng thương mại…) kiểm soát và đầu tư một số lượng lớn tiền tệ vào thị trường công chúng (cổ phiếu, trái phiếu, hàng hóa, tiền tệ…) đương đầu với những biến động của thị trường.
Quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ điền đầy khoảng trống giữa nguồn tài chính cung cấp bởi các ngân hàng và bởi TTCK. Ông Nguyễn Thành Long, Phó chủ tịch UBCKNN trao đổi với phóng viên TBNH.
Theo ông, Việt Nam có khả năng thu hút sự quan tâm của các quỹ đầu tư vốn cổ phần (Private Equity – PE), hay đầu tư mạo hiểm (Venture Capital – VC)?
Tại Việt Nam, đầu tư mạo hiểm là hình thức đầu tư còn khá mới mẻ. Ngoài một số quỹ nước ngoài đang hoạt động thì chúng ta vẫn chưa có quỹ đầu tư mạo hiểm trong nước.
Lịch sử phát triển các quỹ đầu tư PE/VC tại Mỹ cho thấy, có hai thời kỳ mà các quỹ này đóng vai trò trọng yếu, thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Thời kỳ thứ nhất là giai đoạn bùng nổ trong lĩnh vực công nghệ cao tại Mỹ vào những năm 1970, cùng với sự phát triển vượt bậc của “Thung lũng Silicon” dựa trên ba trụ cột: sáng kiến và tài năng cá nhân; vận dụng hiệu quả nghiên cứu khoa học; và vốn. Thời kỳ thứ hai là vào những năm 80, khi các hoạt động mua bán sáp nhập (M&A) DN phát triển. Rất nhiều công ty lớn của Mỹ với phương pháp quản lý không hiệu quả đã phải thanh lý, phá sản, giải phóng một lượng lớn tài sản và vốn ứ đọng vào tay các quỹ đầu tư.
Với những điều kiện, hoàn cảnh tương đồng, Việt Nam đã và đang hội tụ đầy đủ những yếu tố để thúc đẩy sự phát triển và hoạt động của các quỹ đầu tư PE/VC. Theo ước tính của Tổng cục Thống kê, tổng số lượng các DN theo đăng ký kinh doanh đến nay là trên 600.000 DN, trong đó khoảng 350.000 DN đang hoạt động. Trong đó, một số lượng khá lớn các DNNN đã ít nhiều có thương hiệu và vị trí sẽ được sắp xếp, cải tổ lại. Con số này cho thấy nhu cầu vốn để chuyển giao sở hữu, cổ phần hóa là rất lớn và sẽ chỉ có một số lượng nhất định trong số vốn này có thể tiếp cận được qua kênh ngân hàng hoặc từ TTCK.
Vậy, có rào cản nào đối với DN khi muốn tiếp cận nguồn vốn từ các quỹ PE/VC?
Ở phía DN với tư cách người nhận vốn, rào cản đầu tiên để tiếp cận vốn thông thường đến từ việc ý tưởng kinh doanh bị cho là cóp nhặt từ một số các mô hình kinh doanh đã thành công của các nước khác, nhưng không được phân tích và áp dụng đầy đủ cho môi trường kinh doanh tại Việt Nam.
Lý do thứ hai là các DN có thể có ý tưởng kinh doanh tốt nhưng lại thiếu kỹ năng quản trị kinh doanh bài bản. Từ đó dẫn đến việc kết quả hoạt động kinh doanh thiếu khả quan ngay cả khi đã vượt qua giai đoạn “gieo mầm”.
Lý do thứ ba là việc quản trị tài chính và cơ cấu nhân sự yếu. Đặc biệt, trong báo cáo tài chính, số liệu chứng minh cho việc kinh doanh không đầy đủ, có sai sót và bị đánh giá là không đáng tin cậy dẫn đến NĐT dè dặt trong việc rót vốn vào DN.
Ngoài lĩnh vực truyền thống như công nghệ thông tin, truyền thông, công nghệ cao… các quỹ PE/VC có thể mở rộng sang lĩnh vực nào ở Việt Nam?
Các quỹ đầu tư PE/VC trước hết có thể tập trung vào hàng trăm DNNN đang trong quá trình sắp xếp, đổi mới, tái cấu trúc. Thứ hai là các DN tư nhân mới thành lập. Theo báo cáo về thị trường vốn cổ phần khu vực châu Á – Thái Bình Dương của Ernst&Young năm 2013, lựa chọn của các quỹ PE/VC sắp tới có thể kể đến lĩnh vực năng lượng, khai khoáng; công nghiệp và hóa chất; công nghệ và truyền thông; dịch vụ tài chính; hóa sinh; và y tế.
Các quỹ mạo hiểm quốc tế đã có mặt ở Việt Nam, nhưng tới giờ chúng ta vẫn chưa có quỹ PE/VC trong nước. Vậy, lý do là gì?
Điểm khác biệt giữa các quỹ PE/VC và các quỹ đầu tư thông thường chủ yếu tập trung ở các định hướng chính sách và ưu đãi dành cho quỹ này. Các cơ quan quản lý nhìn nhận như một kênh tài chính bổ sung cho kênh tín dụng ngân hàng và kênh huy động vốn trên TTCK. Tuy nhiên, do tính chất rủi ro, thường cần cơ chế ưu đãi để khuyến khích các quỹ PE/VC dành vốn cho phát triển khu vực tư nhân hoặc các đối tượng không thể tiếp cận được với nguồn vốn trên hai thị trường trên.
Ở thời điểm hiện tại, chúng ta đã có quy định về quỹ thành viên với thủ tục thành lập, hoạt động rất gọn nhẹ. Nhưng, việc chưa có các quy định về khái niệm, định nghĩa, định hướng chính sách hay điều kiện hưởng ưu đãi có thể là nguyên nhân khiến chúng ta chưa có các quỹ PE/VC rõ ràng theo thông lệ quốc tế.
Hiện nay, Bộ Khoa học và Công nghệ đang thí điểm xây dựng quỹ đầu tư mạo hiểm để thực hiện Đề án thương mại hóa công nghệ theo mô hình Thung lũng Silicon. Quỹ này chủ yếu là đóng góp từ DN, tổ chức cá nhân, không phải từ nguồn ngân sách Nhà nước. Đây là nỗ lực lớn của Chính phủ để tạo dựng quỹ đi đầu trong việc đầu tư vào khoa học công nghệ và hy vọng sẽ mở ra nhiều cơ hội cho các NĐT.
Xin cảm ơn ông!
Quỹ Đầu Tư Mạo Hiểm – Cứu Cánh Của Các Công Ty Khởi Nghiệp Và Doanh Nghiệp Nhỏ
Theo Saga – 19/02/2015
Trên thế giới hiện nay việc huy động vốn qua rất nhiều kênh khác nhau trong đó có quỹ đầu tư mạo hiểm. Tại Việt Nam hiện nay đã có đấu hiệu phát triển của các quỹ đầu tư mạo hiểm VC (Venture Capital) sau một thời gian hoạt động không hiệu quả và nhiều quỹ này rút lui.
Sự cần thiết của quỹ đầu tư mạo hiểm cho doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp mới
Các doanh nghiệp mới thành lập hoặc các doanh nghiệp có quy mô nhỏ rất khó khăn khi tiếp cận các nguồn vốn tín dụng của ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Bởi vì mức rủi ro không thu hồi vốn rất cao.
Tại Việt Nam các doanh nghiệp nhỏ, các doanh nghiệp sản xuất phần mềm rất khó vay vốn từ ngân hàng, nguyên nhân là doanh thu không chắc chắn, tài sản đảm bảo không có, do vậy các doanh nghiệp này nhiều khó khăn vì phải vay nóng với lãi suất cao, thiếu hụt vốn rất khó khăn trong việc duy trì và phát triển.
Đối tượng tiếp cận vốn mạo hiểm hầu hết đều là các công ty đang trong giai đoạn đầu của quá trình hình thành và phát triển, thị phần nhỏ, chưa có thương hiệu, việc đầu tư trong giai đoạn phôi thai chắc chắn sẽ chứa đựng nhiều rủi ro, nhiều công sức nghiên cứu thực hiện và tiếp thị nhưng chưa chắc người tiêu dùng chấp nhận.
Tác động của vốn mạo hiểm
1. Lợi ích trực tiếp của việc tài trợ vốn mạo hiểm đối với nền kinh tế: Các chương trình đầu tư vốn mạo hiểm nhìn chung quan trọng đối với nền kinh tế. Chúng là các kênh tài trợ khác cho doanh nghiệp trong trường hợp không thể tiếp xúc với nợ vay ngân hàng. Nói tóm lại, chúng giúp tạo ra công ăn việc làm, tập trung vốn cho phát triển và mở rộng nền kinh tế, ứng dụng các công nghệ mới và tăng cường tính cạnh tranh toàn cầu như: Tạo vốn; Phát triển và mở rộng kinh tế địa phương; Phát triển công nghệ; Tạo thêm công ăn việc làm; Thích nghi với nhu cầu cạnh tranh trên các thị trường toàn cầu.
2. Lợi ích trực tiếp của việc tài trợ vốn mạo hiểm đối với doanh nghiệp: Các VC cung cấp nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp và thị trường đang hoạt động nhưng thiếu vốn. Nó là một quá trình đóng vai trò chất xúc tác nhằm tăng cường khả năng doanh nghiệp. Ngoài vốn, quá trình của vốn mạo hiểm còn mang lại khả năng chuyên môn về quản lý, cụ thể hóa kế hoạch kinh doanh và thông tin. Đây là điểm khác biệt giữa vốn mạo hiểm và việc tài trợ vốn thông thường: vốn mạo hiểm còn hơn cả việc đầu tư, hơn cả việc tạo dựng sự giàu có cá nhân; nó đang tạo dựng các công ty.
Khả năng chuyên môn hóa về quản lý: Trước khi cung ứng vốn vào một dự án của doanh nghiệp, một nhà đầu tư mạo hiểm đã dành nhiều thời gian và năng lực nghiên cứu khả năng thành công của dự án. Một trong những nhân tố của quá trình đầu tư mạo hiểm là phải đảm bảo rằng một đội ngũ quản lý có đủ năng lực đang nắm quyền hoặc sẽ được thành lập để giải quyết công việc quản lý của công ty. Vốn mạo hiểm được hoạch định để hỗ trợ các doanh nhân và giúp ra quyết định đúng đắn hơn. Các VC tham gia lập kế hoạch chiến lược, phân tích thị trường, định giá rủi/ro lợi nhuận và tăng cường bổ sung vào công tác quản lý.
Kế hoạch kinh doanh: Quy trình trình tham gia vốn mạo hiểm cũng đảm bảo rằng doanh nhân có suy nghĩ đúng đắn và kế hoạch của họ được xây dựng cụ thể với kế hoạch kinh doanh được chuẩn bị đầy đủ rõ ràng.
Thông tin: VC giữ vai trò của người cung cấp thông tin bằng những nỗ lực thu thập thông tin. Họ có khả năng tập hợp thông tin với chi phí thấp hơn các nhà đầu tư
Vì VC thu thập thông tin dựa trên một số lượng lớn các nhà đầu tư, họ có thể tận dụng lợi thế qui mô của các ngành kinh tế.
Họ cũng có lợi thế về qui mô về các ngành kinh tế, cụ thể là tạo lập được một mạng lưới các nguồn thông tin tham khảo, các nhà cung cấp các dịch vụ.
Các VC được lợi khi hiểu biết thêm những lĩnh vực mới, những kỹ năng mới.
Danh tiếng: Vốn mạo hiểm cung cấp cho doanh nghiệp danh tiếng, uy tín, những thứ được xem là một loại tài sản vô hình và rất có giá trị khi giao dịch với khách hàng.
Các loại hình về quỹ đầu tư mạo hiểm
1. Nhà đầu tư “thiên thần” (Angle Investor): Các cá nhân có vốn với kinh nghiệm hoạt động – đầu tư vốn vào một công ty mới khởi sự. Mức đầu tư điển hình là từ $50,000 đến 1,5 triệu. Angel là thành viên trong ban Giám đốc- đóng góp kinh nghiệm cũng như tư vấn cho hoạt động cũa doanh nghiệp.
2. Công ty đầu tư mạo hiểm (Venture Capital firm): Có hình thức là công ty hợp danh với trách nhiệm hữu hạn hoặc các tập đoàn kinh doanh, đầu tư vốn từ $250,000 đến 20 triệu nhằm tạo cơ sở cho bước đầu tư tiếp theo của các công ty tư nhân.
VC là thành viên trong ban Giám đốc, sử dụng kinh nghiệm kinh doanh, khả năng chuyên môn về ngành nghề hoạt động, ý kiến chuyên môn về tài chính và những mối liên hệ để hỗ trợ cho công ty đầu tư.
3. Các tổ chức phát hành riêng lẻ chứng khoán giá trị cao (High-net-worth Pivate Placement): Các công ty cung cấp dịch vụ tài chính tổ chức thành một nhóm bao gồm những cá nhân có rất nhiều tiền. Mức vốn tập trung từ những nguồn này khoảng từ $5 triệu đến $50 triệu.
4. Tổ chức quản lý tài sản (Asset Management): Nhóm khác nhau bao gồm các công ty hợp danh hay tập đoàn kinh doanh quản lý 5 triệu đến 20 tỷ đolla và tập trung vào các chiến lược đầu tư đa dạng hóa với những hàng hóa thuộc thị trường công chúng như cổ phiếu, trái phiếu, hàng hóa tiền tệ.
5. Công ty mua lại cổ phần theo kiểu vay nợ đầu cơ (Leverage Buyout Firms): Công ty hợp danh TNHH hoặc tập đoàn kinh doanh mua được quyền kiểm soát một hãng tư nhân hoặc công chúng, sử dụng vốn của chính mình kết hợp với nợ tài trợ từ ngân hàng. Độ lớn của các giao dịch này dao động từ 1 triệu đến nhiều tỷ đolla.
6. Qũy đầu tư linh hoạt (Hedge Fund): Tồn tại dưới hình thức công ty hợp danh TNHH hoặc tập đoàn kinh doanh thực hiện các hoạt động mua – bán những công cụ thị trường như cổ phiếu, trái phiếu, hàng hóa, tiền tệ vv….; đương đầu với biến động thị trường. Quy mô của các quỹ này nằm trong khoảng từ vài triệu đến nhiều tỷ đolla.
7. Nhà kinh doanh ngắn hạn (Traders)
Các công ty con (chi nhánh) thuộc các công ty sell-side (ngân hàng thương mại…) kiểm soát và đầu tư một số lượng lớn tiền tệ vào thị trường công chúng (cổ phiếu, trái phiếu, hàng hóa, tiền tệ…) đương đầu với những biến động của thị trường.