Thứ Tư, 6 tháng 5, 2015

Nguỵ biện

Nguồn : Vững Đại Phát 
Nguỵ biện
Tác Giả: Nguyễn Văn Tuấn – 3 May 2015
Cách đây trên 10 năm tôi căn cứ vào những gì mình học qua và có viết một bài khá dài để liệt kê những nguỵ biện phổ biến ở người Việt. Bài đó được phổ biến rất nhiều qua từng ấy năm. Nhưng hôm qua, nhân một cái note nhỏ về “Chứng từ của tội lỗi” (tôi không dùng chữ “tội ác”), tôi mới thấy thói nguỵ biện vẫn còn tồn tại trong khá nhiều bạn đọc.
Tôi thấy một nguỵ biện phổ biến nhất là đánh tráo vấn đề. Tiếng Anh gọi là distraction. Có nhiều thói trong nhóm nguỵ biện này, nhưng một số thói phổ biến tôi thấy trong thực tế là:
Thứ nhất là thói nguỵ biện có tên mà tiếng Anh gọi là “red herring”, hiểu theo nghĩa đánh tráo vấn đề. Chữ “red herring” có nguồn gốc từ thế kỉ 19 khi những người thợ săn dùng mùi cá để đánh lạc hướng và huấn luyện chó săn. Câu chuyện là cây búa được dùng cho việc giết người, người dùng nó là người của chính quyền đương thời, và việc sử dụng công cụ này được chính chính quyền xác định trên giấy trắng mực đen. Cây búa là một chứng từ nói lên tính man rợ trong thời chiến của phe chính quyền. Người đọc có suy tư phải suy nghĩ, tìm hiểu, lí giải vấn đề, và giúp người khác hiểu sâu thêm.
Nhưng có người lại đánh tráo vấn đề bằng cách cho rằng phía VNCH cũng ác ôn không kém. Nhưng đối tượng chính ở đây là chứng từ tội lỗi ngày xưa của phía chính quyền hiện hành, chứ không phải là VNCH. Bằng cách lái vấn đề sang VNCH, người ta, hoặc cố ý hoặc vô ý, đánh tráo từ một vấn đề A sang vấn đề B. Hệ quả của sự đánh tráo như thế là làm cho người khác, nếu không tinh ý và tập trung, sẽ bị lẫn lộn vấn đề. Từ lẫn lộn dẫn đến việc bàn luận chẳng đi đến đâu, và cuối cùng chỉ là những lời qua tiếng lại một cách vô nghĩa. Nói như thế không có nghĩa là bỏ qua những tội ác của VNCH, nhưng ở đây không phải là chủ đề đó, nên đánh tráo sang nó là rất không có ích.
Một loại nguỵ biện khác là tấn công cá nhân. Tiếng Anh gọi là ad hominem. Thật ra, thói nguỵ biện này rất ư phổ biến trong báo chí Việt Nam. Thay vì bàn luận về vấn đề thì người ngụy biện đem người đặt vấn đề ra chửi bới cá nhân. Ví dụ về thói này thì rất rất nhiều, nhưng tôi nghĩ biểu nhất là sự việc chung quanh ông Cù Huy Hà Vũ. Ông Hà Vũ là người bất đồng chính kiến với chính quyền, ông kêu gọi hợp – hoà giải dân tộc, ông kêu gọi dân chủ, ông nêu những vấn đề “dân oan”, v.v. Nhưng thay vì đối thoại với ông, thì những người trong chính quyền (và báo chí) bơi móc đời tư cá nhân của ông, và những tranh chấp trong gia đình ông. Người ta có lẽ muốn chứng minh rằng ông Hà Vũ đời thường cá nhân là tệ thế thì những gì ông ấy nói là không đáng để nghe. (Nói như thế thì đời tư các lãnh đạo từ ông Lê Duẩn đến ông Clinton, ông nào cũng có vấn đề đời tư cá nhân cả, thì không tin họ sao?) Không phân biệt được cá nhân và quan điểm của cá nhân là dễ dẫn đến bàn luận chẳng đi đến đâu.
Tuy nhiên, thói tấn công cá nhân là một thói nguỵ biện rất thấp kém nhưng lại rất lợi hại. Lợi hại là vì công chúng thích những chuyện đời tư cá nhân hơn là động não suy nghĩ chuyện lớn. Hệ quả của ad hominem cũng là đánh tráo vấn đề: chuyển đối tượng bàn luận sang chuyện cá nhân.
Một thói nguỵ biện hay được đem ra sử dụng là ví von bất xứng (false analogy). Thông thường, đây là thói nguỵ biện so sánh một sự việc đang bàn với một sự việc khác, nhưng các yếu tố trong so sánh không tương đồng với nhau. Tiêu biểu cho thói ngụy biện này là cách nói “nếu xem gói thuốc nổ trong bánh là khủng bố, thì việc bỏ bom cũng là khủng bố”. Nhưng hai sự việc rất khác nhau. Việc giả cái bánh để giết người là hành động lén lút ám sát, còn việc bỏ bom là hành động được tuyên bố trong một cuộc chiến. Không thể so sánh và đánh đồng hai sự việc như nhau được. Tương tự, cây búa và cây súng khác nhau xa về ý nghĩa trong chiến tranh, nhưng có người nói dùng súng để bắn chết người trong chiến tranh là ok thì dùng búa cũng ok. Nhưng cây búa không phải là công cụ để tự vệ trong chiến tranh, không phải là “conventional war”, mà nếu dùng nó để giết người trong chiến tranh thì phải xem đó là tội phạm. Không thể đánh đồng cây búa và cây súng được. Chiến tranh cũng có luật chơi của nó.
Thói nguỵ biện hay thấy ở người Việt là thói mà tiếng Anh gọi là ignorance – tức là thiếu thông tin (hay có người dịch là “dốt”). Một số đông các bạn trẻ trong nước bị tuyên truyền và nhồi sọ quá lâu, nên họ không phân biệt được đâu là sự thật và đâu là giả dối. Đến thời điểm này mà vẫn đem những Lê Văn Tám, những tay không kéo máy bay trực thăng, những “lê máy chém khắp nơi”, v.v. là rất đáng trách. Đó không phải là những sự thật, mà chỉ là sản phẩm của tuyên truyền và giả dối. Mà, những sự kiện giả dối thì không thể dùng trong bàn luận nghiêm chỉnh được.
Tôi thấy thỉnh thoảng có thói nguỵ biện đảo ngược điều kiện. Loại ngụy biện này thường được biểu hiện qua cách nói “Nếu VNCH thắng thì tình hình cũng thế”, và hàm ý là “tình hình tồi tệ hiện nay là chấp nhận được”. Thói nguỵ biện này phạm phải 2 cái sai lầm. Thứ nhất là sự việc đã không xảy ra, và cách nói chỉ là giả thuyết. Thứ hai, cách nói đó giả định rằng chế độ VNCH là chuẩn mực, một điều rất khó kiểm chứng trong thực tế. Tuy nhiên, cách nói như thế là rất thấp, vì nó là kiểu đánh vào … không khí (vì sự việc không xảy ra).
Điều đáng tiếc là những nguỵ biện như thế vẫn xảy ra hàng ngày trong thế giới mạng. Chẳng những thế mà còn xảy ra ở nhiều quan chức cao cấp. Có những nguỵ biện rất hài hước như IQ và đường sắt cao tốc, như số báo chí và đài truyền hình là tự do báo chí, như học tập cải tạo là thể hiện lòng nhân ái, vân vân và vân vân.
Nguỵ biện là hệ quả của sự lười biếng suy nghĩ. Vì lười biếng suy nghĩ nên người ta phải sử dụng những gì sẵn có. Những gì sẵn có là khẩu hiệu nhan nhãn từ mấy chục năm nay. Thành ra, không ngạc nhiên khi thấy sinh viên (và những người lười suy nghĩ) thấy ai có quan điểm và suy nghĩ khác họ thì họ cho ngay cái nhận xét “phản động”. Thấy ai nói về hành động tàn ác trong chiến tranh, họ nghĩ ngay đến “phía bên kia cũng ác ôn”. Dùng phía bên kia để biện minh cho sự ác ôn của mình là khó thuyết phục, nhưng nó làm cho họ cảm thấy an lòng. Họ chỉ thốt cái chữ đó ra theo quán tính, chứ chưa chắc họ biết cái nghĩa thật của chữ đó là gì.
Có lẽ, ở một khía cạnh nào đó, điều này cũng không đến nỗi tệ, bởi vì những ngụy biện phản ánh sự thành công [hay có người nói sự phong phú] của ngôn ngữ trong việc tách rời giữa những gì thô thiển, gồ ghề với những gì hoàn thiện, mĩ miều. Nhưng sự trơn tru của các vật thể và ngôn ngữ ngày nay đem lại cho chúng ta một cảm giác giả tạo về thế giới thực của các vật thể. Trơn tru, tròn trĩnh có thể là giả tạo. Những câu văn ngụy biện có thể chỉ là những lời phát biểu lém lỉnh thay vì lịch thiệp, hàm chứa mánh khóe thay vì thân thiện. Có thể nói, ngụy biện là những lối sáo ngữ liến thoắng nhằm vào mục đích lôi cuốn người nghe/đọc, thay vì cung cấp cho họ một sự thực.

Loạt Bài Về Hướng Đi Cho Nông Nghiệp

Nguồn : Vững Đại Phát 
Bài 1:
Vì sao ngành nông nghiệp Mỹ đứng hàng đầu thế giới?
Tổng Hợp của Nhật Hạ – Theo Đại Kỷ Nguyên – 4 May 2015
Nước Mỹ có ngành nông nghiệp tân tiến, hiện đại nhất thế giới. Lao động nông nghiệp chiếm khoảng 1% trong tổng dân số 322 triệu người. Nếu tính dưới góc độ lực lượng lao động thì lao động ngành nông nghiệp của Mỹ chỉ chiếm 0,7% tổng số lực lượng lao động của toàn nước Mỹ tính đến thời điểm năm 2014 (với 155.421.000 người).
Diện tích nước Mỹ là 9,161,923 km2, trong đó diện tích đất có thể canh tác được chiếm 18,1%. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp Mỹ, tháng 02/2014, Mỹ có 2,109,363 tổng số nông trại, trung bình mỗi trại có diện tích 174 héc ta.
Năm 2012, tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp đạt 394.6 tỷ đô la Mỹ, tăng 33% so với năm 2007, trong đó giá trị các sản phẩm trồng trọt là 219.6 tỷ đô la, giá trị sản phẩm chăn nuôi đạt 171.7 tỷ đô la.
Xuất nhập khẩu nông sản, Mỹ là nước dẫn đầu thế giới, ước tính chiếm 18% thị phần thương mại nông sản của toàn cầu.Từ năm 1960 đến năm 2014, Mỹ luôn thặng dư về thương mai các sản phẩm nông nghiệp, ví dụ như xuất khẩu nông sản năm năm 2014 ước tính đạt 149.5 tỷ đô la, chiếm hơn 10% tổng số kim ngạch xuất khẩu tất cả các mặt hàng và thặng dư mậu dịch nông nghiệp lên đến hơn 38.5 tỷ đô la Mỹ.
Dưới đây là một số lý do giải thích vì sao nước Mỹ có một tỷ lệ nông dân rất nhỏ so với tổng lực lượng lao động, mà lại có một nền nông nghiệp lớn mạnh như vậy.
1- Chính sách hỗ trợ nông nghiệp của chính phủ
Các chính sách ủng hộ việc phát triển nông nghiệp của chính phủ Mỹ đã làm nên sự thành công của ngành nông nghiệp Mỹ. Ngay từ thời kỳ đầu, Chính phủ đã ban hành luật đất đai vào năm 1862 quy định phát không đất đai cho những người đến sống và làm việc trên các mảnh đất trống tại miền Tây nước Mỹ, tạo điều kiện cho một số nông dân được định cư, lập nghiệp dễ dàng.
Vào năm 1914, Quốc hội Mỹ đã lập ra cơ quan Dịch vụ phát triển nông nghiệp, cơ quan này tuyển dụng đội ngũ cán bộ để cố vấn cho các hộ nông dân từ bước sử dụng phân bón cho đến các khâu sau của quy trình sản xuất nông nghiệp. Bộ Nông nghiệp đảm nhiệm tiến hành các nghiên cứu mới, cho ra đời những loại phân bón làm tăng sản lượng hạt, các loại giống lai cho cây trồng khoẻ hơn, các phương pháp chữa trị nhằm bảo vệ và cứu chữa cây trồng vật nuôi chống được bệnh tật, và nhiều phương pháp khác kiểm soát các loài vật gây hại.
Vào năm 1929, tổng thống Herbert Hoover thành lập ban nông nghiệp liên bang nhằm bảo đảm sự ổn định kinh tế cho nông dân. Năm 1933, Tổng thống Franklin D. Roosevelt cho phép thực hiện một hệ thống trợ giá cho nông dân một mức giá gần bằng giá lúc thị trường ở điều kiện ổn định bình thường. Đồng thời, trong khoảng thời gian từ 1933 đến 1996, chính phủ cho nông dân vay tiền canh tác, nông dân có quyền trả nợ theo giá quy định trong hợp đồng. Cụ thể là vào những thời điểm sản xuất dư thừa, nông dân bán sản phẩm cho chính phủ, còn vào lúc giá nông phẩm cao, nông dân có quyền bán sản phẩm cho các công ty kinh doanh lương thực để tăng lợi tức.
)Ngoài ra, chính phủ còn đề ra chính sách bảo tồn, dưỡng đất dự trữ. Sự can thiệp với quy mô lớn vào ngành nông nghiệp Mỹ được kéo dài cho đến tận cuối những năm 1990. Sau đó, chính sách trợ giá nông nghiệp chỉ duy trì ở mức thấp, chính phủ tập trung vào chương trình dự trữ chiến lược, chống thiên tai, bảo vệ môi trường, nghiên cứu khoa học, để phục vụ hiệu quả cho ngành nông nghiệp Mỹ.
Hiện nay, chính phủ đang chú trọng đến xuất khẩu nông sản, và đặc biệt quan tâm đến tính vững bền của lực lượng lao động nông nghiệp. Thượng viện vừa thông qua dự luật di dân nhằm mục đích bảo đảm có đủ số công nhân cần thiết cho nền nông nghiệp, đặc biệt là vào mùa gặt hái, chăn nuôi gia súc, và sản xuất nông phẩm cần thiết cho xuất khẩu. Đạo luật này cũng mở đường cho những người làm việc trong ngành nông nghiệp Mỹ mà chưa có giấy tờ hợp lệ được phép nhập cư vào Mỹ.
Chính nhờ các chính sách hỗ trợ một cách hiệu quả này đã mang lại cho ngành nông nghiệp Mỹ một kết quả tốt đẹp như ngày hôm nay.
2. Tính tự chủ và sáng kiến của nông dân
Xét trên giác độ lịch sử, nông dân Mỹ được nhìn nhận với tính tự chủ rất cao, cần cù, sáng tạo, kiên nhẫn và đầy nhiệt huyết. Và thời kỳ đầu, những người nông dân này đến Mỹ với bàn tay trắng, tự làm việc trên những mảnh đất không có giấy tờ sở hữu. Năm 1790 nông dân Mỹ chiếm 90% dân số. Số lượng nông dân giảm liên tiếp qua thời gian, đến năm 1920, nông dân Mỹ chiếm 30.8% tổng dân số, đến năm 1960, họ chiếm 8,3% tổng dân số và đến thời điểm năm 2014, ước tính số lượng nông dân Mỹ thực sự hoạt động trên đồng ruộng chỉ chiếm khoảng 1% trong tổng số toàn dân Mỹ.
Những người nông dân này thực hiện vận hành các nông trại nhỏ và vừa được của chính gia đình họ, hay họ thành lập nên những công ty do chính họ làm chủ, chiếm tới 95% tổng diện tích đất nông nghiệp được canh tác, 5% còn lại thuộc về các tập đoàn lớn làm chủ
Nông dân Mỹ sử dụng máy móc rất thành thạo, có trình độ hiểu biết cao về nông nghiệp và kinh tế, nhiều người có bằng đại học. Họ chú trọng vào việc cải thiện kỹ thuật trồng trọt, kỹ thuật chăn nuôi gia súc dẫn đến sản lượng nông nghiệp tăng mạnh. Hình ảnh người nông dân Mỹ ngày nay là hình ảnh của người công nhân nông nghiệp. Họ hay mặc quần jean, áo carô màu, sống trong những khu vực đầy đủ tiện nghi.Thu nhập của người làm nghề nông ở Mỹ khá cao, mức lương trung bình hiện nay của một công nhân nông nghiệp Mỹ là 61.000 đô la/năm. Tính trên hộ gia đình thì thu nhập trung bình của một gia đình nông dân năm 1960 là 4.654 đô la, đến năm 2012 thì thu nhập trung bình là 108.814 đô la, tăng 23,38 lần trong thời gian 52 năm.
3. Áp dụng phương tiện và kỹ thuật hiện đại trong sản xuất nông nghiệp
Nước Mỹ đặc biệt nhấn mạnh đến việc cơ giới hóa các phương tiện canh tác, sử dụng máy móc thay thế cho sức người và sức súc vật. Chi phí máy móc chiếm một tỷ lệ rất lớn trong tổng chi phí đầu tư vào sản xuất nông nghiệp. Việc cơ giới hóa máy móc không chỉ đơn thuần là tăng số lượng máy móc trên cánh đồng mà còn chú ý đến thực hiện kết hợp các tính năng để tạo ra các máy liên hoàn, kết hợp máy kéo với máy cày, máy gieo trồng, máy gặt. Hay các sáng kiến về các loại máy móc có thể canh tác được ở những vùng đất cứng mà sức người khó có thể làm được. Hầu như mọi hoạt đông trong sản xuất nông nghiệp đều thực hiện bằng máy móc, từ làm đất, gieo trồng, bón phân, tưới tiêu đến gặt hái. Nông dân còn dùng máy bay để phun thuốc trừ sâu, dùng máy điện toán đề theo dõi kết quả thu hoạch. Ngày nay, không có gì lạ khi nhìn thấy những người nông dân lái máy kéo với các ca bin lắp điều hòa nhiệt độ, gắn kèm theo những máy cày, máy xới và máy gặt có tốc độ nhanh và rất đắt tiền.
Vào đầu thế kỷ 20, phải có 4 nông dân mới sản xuất nông phẩm đủ nuôi cho 10 người, ngày nay, một nông dân Mỹ có thể cung cấp đủ lương thực nuôi 100 người Mỹ và 32 người đang sống tại các nước trên thế giới.
Với diện tích đất canh tác rộng lớn nên việc áp dụng các phương tiện và kỹ thuật hiện đại trong sản xuất nông nghiệp đã khiến cho năng suất lao động tăng mạnh. Bên cạnh đó, mặc dù có những đợt lũ lụt và hạn hán nhưng nhìn chung lượng nước mưa tương đối đấy đủ, nước sông và nước ngầm cho phép tưới tiêu tại các tiểu bang thiếu nước. Vùng đất phía Tây thuộc miền Trung nước Mỹ có đất đai canh tác màu mỡ. Chính vì vậy khi đến Mỹ, người ta thường thấy những cánh đồng ngô, đậu nành, lúa mì, cam, cánh đồng cỏ, rộng mênh mông, xanh tươi, bát ngát.
Với những lý do trên, ngành nông nghiệp Mỹ đã đạt được những thành tựu to lớn, thực sự đóng một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế Mỹ, với các loại thực phẩm dồi dào với giá rẻ, tạo thêm công ăn, việc làm cho các ngành chế biến, sản xuất máy móc, và đặc biệt dịch vụ xuất khẩu nông phẩm đi khắp các nước trên thế giới.
4. Bài học cho chúng ta
Nhìn lại ngành nông nghiệp Việt Nam, cho đến thời điểm này, năng suất lao động trong ngành nông nghiệp của Việt Nam luôn thấp nhất trong nhóm các nước có mức thu nhập trung bình thấp và không thể bắt kịp được năng suất lao động của các nước này kể từ năm 2005. Trong khi đó, năng suất lao động của ngành nông nghiệp lại đang có xu hướng chững lại, hiện chỉ bằng 1/3 so với năng suất chung của cả nước. Theo thông tin từ Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (IPSARD), giá trị gia tăng nông nghiệp trên mỗi lao động của Việt Nam năm 2011 đạt chưa tới 400 USD/người, thấp hơn cả Lào và Campuchia. Mặc dù nông nghiệp cũng là lĩnh vực duy nhất của Việt Nam luôn có xuất siêu trong nền kinh tế. Trong vòng gần 3 thập niên, nông nghiệp Việt Nam tăng trưởng đều đặn, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới với các sản phẩm như gạo, tiêu, điều, sắn, chè, cao su.
Tuy nhiên, điểm đáng lưu ý là tăng trưởng nông nghiệp và năng suất có xu hướng chững lại, tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) của nông nghiệp giảm dần từ mức bình quân 4,5% giai đoạn 1995-2000 xuống 3,8% giai đoạn 2000-2005 và chỉ còn 3,4% giai đoạn 2006-2012.
Chính vì vậy, để có được những bước đột phá cho ngành nông nghiệp Việt Nam, có lẽ cần có những chính sách sát hữu hiệu giúp đỡ người nông dân một cách toàn diện hơn nữa. Có như vậy ngành nông nghiệp Việt Nam mới có thể phát triển bền vững.
Nhật Hạ tổng hợp