Thứ Tư, 3 tháng 6, 2015

Khi Dư Luận Viên Mỹ Mở Miệng….

Nước Mỹ Vĩ Đại
Tác Giả: Nguyễn Quốc Khải – VOA – 2 June 2015
(GNA: Ông già Alan sang Mỹ học từ 1963 nhưng không chắc đã hùng hồn thuyết phục và có lòng tin son sắt vào mẫu quốc như bạn Khải này. Nghiên khảo cẩn thận đề tài; nói có sách mách có chứng. Đề nghị Mr. Khải sang Việt Nam mở một khóa học dậy các DLV Việt đường lối tuyên truyền hiện đại; vì chỉ lập đi lập lại khẩu hiệu từ báo Nhân Dân, đọc buồn ngủ quá)
Nhờ phim ảnh và sách báo, từ nhỏ tôi đã nghĩ là Hoa Kỳ là một nước vĩ đại. Không đầy hai thế kỷ từ ngày lập quốc, Hoa Kỳ đã trở thành một cường quốc số một của thế giới sau Đệ Nhất Thế Chiến. Vào đầu thập niên 70, sau nhiều cam go, xin được học bổng của Cơ Quan Phát Triển Quốc Tế (U.S. Agency for International Development viết tắt là USAID) tôi được đặt chân đến Hoa Kỳ, một cơ hội cho tôi lần mò tìm hiểu làm thế nào Hoa Kỳ lại hùng mạnh đến như vậy.
Cơ quan USAID đề nghị ba trường đại học cho tôi tự ý chọn: Ohio State University, Louisana State Unversity, và University of Florida. Tôi sợ lạnh nên lựa đại học của vùng nắng ấm Florida. Khi tôi nhập học, trường cho tôi ở chung với ba sinh viên Hoa Kỳ trong một phòng lớn có hai phòng ngủ và một phòngkhách và bếp nối liền nhau ở tầng 9 trong một cao ốc 12 tầng.
Không đầy một tháng, tôi được tin cơ quan Quản Trị Hàng Không và Không Gian Quốc Gia (National Aeronautics and Space Administration viết tắt là NASA) báo tin về ngày phóng phòng thí nghiệm không gian (skylab) vào quỹ đạo trái đất. Tôi muốn chứng kiến một chương trình vĩ đại của nước Mỹ. Rất tiếc rằng cửa sổ phòng của chúng tôi hướng về phía bắc, trong khi đó Cape Canaveral, nơi phóng hỏa tiễn lại ở về hướng nam. Cho dù ở cùng hướng, tôi cũng không nhìn thấy hỏa tiễn phóng lên, vì hai nơi cách xa nhau 170 dặm.
Những thứ vĩ đại của nước Mỹ người ta thường nghĩ đến là những tòa nhà chọc trời ở New York, hệ thống xa lộ chằng chịt bao trùm khắp nước Mỹ, chương trình Apollo đưa con người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng, phi thuyền con thoi, số giải thưởng Nobel dành cho những nhà bác học Hoa Kỳ, lợi tức đầu người trung bình của người dân Hoa Kỳ và những trường đại học nổi tiếng. Theo điều nghiên của Đại Học Jaotong tại Thượng Hải, trong 20 trường đại học tốt nhất thế giới, 17 trường là của Hoa Kỳ. [1]
Kể từ ngày tới Mỹ du học đến nay, tôi đã ở liên tục trên đất nước này trên 40 năm, nhiều hơn cả thời gian ở Việt Nam. Thời gian này dài đủ để buộc tôi phải hiểu thêm về quốc gia trẻ trung và hùng mạnh này. Vai trò đại cường quốc mà nước Mỹ đạt được không phải là nhờ nước Mỹ rộng lớn, trải dài từ Đại Tây Dương đến Thái Bình Dương. Thật vậy, Liên Bang Nga lớn gấp bội so với Hoa Kỳ. Trung Quốc và Canada có một diện tích xấp xỉ với Hoa Kỳ. Brazil và Úc cũng không thua Hoa Kỳ về diện tích bao nhiêu.
Nước Mỹ vĩ đại cũng không phải vì dân số đông. Thật vậy, Trung Quốc và Ấn Độ có dân số lớn gấp trên dưới bốn lần so với dân số của Hoa Kỳ nhưng tổng sản phẩm nội địa trung bình đầu người của Trung Quốc và Ấn Độ thua xa Hoa Kỳ. Singapore, Na Uy, và Thụy Sĩ có lợi tức đầu người trung bình hơn cả Hoa Kỳ mặc dù ba nước này rất nhỏ về cả diện tích lẫn dân số.
Nước Mỹ làm được những thứ vĩ đại chính là nhờ vào những điều rất tầm thường nhưng vô cùng quan trọng, nhiều quốc gia như Việt Nam không có được vì gánh nặng văn hóa chậm tiến đè nặng trên vai trên cổ của họ cùng với một mớ giáo điều lỗi thời.
Tôi đến nước Mỹ lần đầu tiên vào mùa xuân 1970 trong một chương trình huấn luyên quân nhu và du sát trong 4 tháng. Thỉnh thoảng chúng tôi được cho đi thăm thú một vài danh lam thắng cảnh của nước Mỹ bằng xe buýt. Mỗi khi gần đến các đoạn đường có đường xe lửa chạy ngang, ông tài xế cho ngừng xe lại, mở hết các cửa xe ra, rồi mới vượt qua đường sắt, mặc dù ở ngay giữa đồng không mông quạnh, không thấy một bóng dáng xe cộ nào cả. Ngày nay, thỉnh thoảng lái xe ban đêm khoảng một hai giờ sáng, tôi vẫn thấy người ta chịu khó chờ đèn xanh chứ không vượt đèn đỏ, mặc dù đường xá vắng tanh. Tinh thần kỷ luật của dân Mỹ nói chung rất cao là một trong những yếu tố làm cho nước Mỹ hùng mạnh. Dân Mỹ tôn trọng kỷ luật một phần vì luật pháp ở Hoa Kỳ rất nghiêm minh. Luật do chính người dân làm ra qua những người đại diện của họ trong chính quyền hoặc các cơ quan lập pháp.
Tôi làm việc nhiều năm tại Washington-DC. Thỉnh thoảng tôi đi bộ đến National Geographic Society (NGS) vào giờ trưa để xem triển lãm, tìm kiếm bản đồ, và sách báo về địa dư. Trong một thời gian rất lâu tôi vẫn tưởng NGS là một cơ quan của chính phủ, vì tầm vóc của cơ quan này về phương tiện cũng như hoạt động rất lớn, nhưng thật ra đây là một hội tư nhân bất vụ lợi, thành lập từ năm 1888, chuyên nghiên cứu về địa dư, khảo cổ, khoa học tự nhiên, và bảo vệ môi trường. NGS có 700 triệu độc giả mỗi tháng. Những ấn phẩm được in bằng 40 ngôn ngữ khác nhau. Ngân sách hàng năm vào khoảng $500 triệu.
NGS là một trong hơn 1.5 triệu tổ chức phi chính phủ (non-governmental organization viết tắt là NGO) tại Hoa Kỳ.[2] Những tổ chức này đóng những vai trò tích cực trong việc soạn thảo luật, hoạch định chánh sách của chính phủ, ảnh hưởng đến mọi tầng lớp của xã hội. Hoạt động của những tổ chức này bao gồm các vấn đề như nhân quyền, lao động, môi trường, phát triển, sức khỏe, kế hoạch gia đình, từ thiện, bảo vệ súc vật, bảo vệ các nhóm thiểu số, v.v. Một số tổ chức không cung cấp dịch vụ, mà chỉ nhắm vận động hành lang để bênh vực quyền lợi của nhóm người mà tổ chức đại diện. NGO đóng một vai trò vô cùng quan trọng giúp cho Hoa Kỳ hùng mạnh.
Tôi có một người bạn già tri kỷ ở cùng tiểu bang Virginia. Anh ta có một người con học rất khá ở bậc trung học, nên University of Virginia (UVA) cho học bổng toàn phần 4 năm. Theo xếp hạng của U.S. News & World Report, UVA đứng thứ 23 trên toàn nước Mỹ nhưng đứng đầu về chương trình kỹ sư bậc cử nhân, hạng nhì so với các trường đại học công, và hạng 6 về ngành kinh doanh. Nhưng đứa con của anh bạn tôi từ chối học bổng này và chọn University of Pennsylvania, một trong tám trường Ivy League nổi tiếng, xếp hạng thứ 8 trong tổng số các trường đại học ở Mỹ. Khi học xong bậc cử nhân, đứa con của bạn tôi được cả năm trường đại học giỏi nhất nước Mỹ nhận vào học.
Ở Hoa Kỳ, sinh viên giỏi có nhiều cơ hội lựa chọn trường tốt. Các trường dành sinh viên giỏi. Các công ty và các cơ quan chính phủ đôi khi đến tận các trường nổi tiếng để tuyển sinh viên giỏi tốt nghiệp. Hệ thống ganh đua và lựa chọn như vậy đã giúp đưa nhiều người tài năng vào những chức vụ lãnh đạo trong mọi lãnh vực. Chính vì vậy mà nước Mỹ tiến mạnh, không một quốc gia trên thế giới hiện nay có thể bắt kịp.
Theo bảng xếp hạng hàng năm của Viện Quốc Phát Triển Quản Trị (International Institute of Management Development, viết tắt là IMD) tại Lausanne, Thụy Sĩ, Hoa Kỳ đứng đầu trong danh sách những nước có khả năng cạnh tranh cao nhất thế giới, tiếp theo là Thụy Sĩ, Hồng Kông, Thụy Điển, và Singapore. Đức đứng hạng 9. Trung Quốc và Nga lần lượt đứng hạng 21 và 42 trong số 60 quốc gia IMD nghiên cứu.
Một trong những lý do khiến Hoa Kỳ có khả năng cạnh tranh cao là do năng suất lao động của Hoa Kỳ cao. Năng suất lao động được đo lường bằng tỉ lệ tổng sản lượng nội địa trên tổng số giờ làm việc. Theo thống kê 2012 của Tổ Chức Hợp Tác Kinh Tế và Phát Triển (Organization for Economic Cooperation & Development, viết tắt là OECD), Hoa Kỳ xếp hạng thứ tư sau Na Uy, Luxembourg, và Ireland. Nga đứng hạng 36, trên Mexico trong số 37 nước thành viên trong tổ chức OECD. [3]
Một trong những khổ tâm trong thời gian học tại Việt Nam là lối học từ chương. Khi chuẩn bị thi tú tài, học trò phải thuộc lòng cùng một lúc nhiều môn học khác nhau đã học suốt năm. Vì học theo sách vở và rất ít thực hành nên nhiều khi thuộc như con vẹt mà không hiểu và do đó thi xong là quên. Lối giáo dục này tiếng Mỹ gọi là “drill-and-kill teaching” hiện vẫn còn áp dụng ở Trung Quốc và Việt Nam cộng thêm giáo điều xã hội chủ nghĩa và tư tưởng Hồ Chí Minh. Một trong những điều may mắn khi được học ở nước Mỹ là chương trình theo lối tín chỉ. Thi xong môn nào vừa học trong ba hay sáu tháng là có điểm môn đó. Thường thường học mới có nửa khóa là đã phải thi giữa khóa. Các bài thi đòi hỏi sinh viên phải suy nghĩ chứ không phải thuộc lòng.
Sinh viên sợ nhất là thi mở sách (open book exam hay take-home exam) vì phải dùng sự xét đoán rất nhiều, thường áp dụng cho sinh viên cao học. Lối học thuộc lòng làm thui chột óc sáng tạo. Khi thỉnh giảng tại School of Advanced International Studies của Johns Hopkins University, tôi thường cho sinh viên chọn một cuốn sách trong danh sách sách cần đọc và thường chỉ đòi sinh viên trả lời bốn câu hỏi: (1) Tác giả muốn nói gì?; (2) Những điểm đồng ý và tại sao; (3) Những điểm không đồng ý và tại sao? và (4) Kết luận.
Sáng tạo và khả năng cạnh tranh liên quan trực tiếp với nhau. Theo GS Richard Florida, University of Toronto, không ai rõ sự phồn thịnh, một phép lạ ở Hoa Kỳ trong hơn một thế kỷ vừa qua, thực sự do những nguyên nhân nào. Tuy nhiên theo ông, sự thành công của Hoa Kỳ là do một nhân tố then chốt là việc đón nhận những ý kiến mới. Ý kiến không từ trên trời rơi xuống mà đến từ con người. Tất cả những tiện nghi và những phát minh làm gia tăng năng suất như iPod và GPS đều do con người tạo ra. Khối nhân lực sáng tạo 38 triệu người của Hoa Kỳ bao gồm những khoa học gia, kỹ sư, kiến trúc sư, nhà giáo dục, nghệ sĩ, nhạc sĩ, và những người giúp vui. Nhiệm vụ của họ là tạo ra những sáng kiến, kỹ thuật mới, hoặc là nội dung mới.[4] Để khuyến khích sức sáng tạo, luật pháp Hoa Kỳ tuyệt đối bảo vệ các phát minh và bản quyền, kể cả một tấm hình vừa được máy ảnh thu vào hay một bản nhạc vừa được sáng tác.
Nhờ vào chính sách di dân rộng rãi, Hoa Kỳ đã thu nhận nhiều nhân tài từ những nước khác, đặc biệt từ Âu Châu khi nhiều người trốn tránh chế độ Phát xít và Cộng sản trong thời kỳ Thế Chiến Thứ Hai và Chiến tranh lạnh. Nhà Vật lý và Triết gia Albert Einstein, từng mang nhiều quốc tịch khác nhau: Wurttenberg, Thụy Sĩ, Áo, và Đức. Trong một chuyến viếng thăm nước Mỹ vào năm 1933, là một người theo đạo Do Thái, ông quyết định không trở lại Đức khi Adolf Hitler lên làm tổng thống để trốn tránh chế độ Nazi. Albert Einstein trở thành công dân Mỹ vào năm 1940.
Kỹ sư Không gian gốc Đức Wernher von Braun định cư tại Hoa Kỳ sau khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt ở Âu châu. Khoa học gia Điện toán gốc Nga Sergey Mikhaylovich Brin di dân đến Mỹ vào năm 1979 khi mới 6 tuổi. Gần 20 năm sau, ông cùng với bạn học cũ Larry Page ở Stanford University thành lập công ty Google. Kỹ sư Điện gốc Ấn Độ Sabeer Bhatia du học ở Mỹ từ năm 1988, đồng sáng lập Hotmail cùng với đồng nghiệp Jack Smith vào năm 1996 với 369 triệu người sử dụng, xếp hạng hai sau Google. [5]
Kinh tế Hoa Kỳ phát triển qua ba thời đại. Trước nhất là thời đại nông nghiệp. Kế tiếp là thời đại kỹ nghệ hóa. Trong ba hay bốn thập niên vừa qua, Hoa Kỳ đã bước vào thời đại sáng tạo. Trong 10 năm gần đây có những dấu hiệu chứng tỏ sức sáng tạo của Hoa Kỳ gặp nguy cơ đi xuống. Thật vậy, theo sự nghiên cứu của GS Richard Florida, tỉ lệ của khối nhân lực sáng tạo trên tổng số nhân công của Hoa Kỳ đứng hạng thứ 11 sau mười nước như Ireland, Bỉ, Úc, Hà Lan, New Zealand, Estonia, Anh, Canada, Phần Lan, và Iceland. Theo tạp chí Business Week, trong số 25 công ty công nghiệp cao, chỉ có sáu công ty đặt cơ sở tại Hoa Kỳ trong khi đó 14 công ty đặt tại Á Châu.
Về công ăn việc làm người ta thường nói đến nạn thất nghiệp và công việc chuyển ra nước ngoài. Nhưng theo GS Florida vấn đề quan trọng hơn là tình trạng thiếu tài năng sáng tạo. Kinh tế gia Lawrence Summers, cựu Viện trưởng Harvard University và kinh tế gia Edward Montgomery, cựu Thứ trưởng Lao động, cho rằng vấn đề thiếu tài năng sáng tạo khó tránh khỏi. Hoa Kỳ cần phải cạnh tranh với những nước phát triển khác để thu hút và trọng dụng nhân tài bằng chương trình di dân và chiếu khán rộng rãi. Trong khoảng 24 năm gần đây, kể từ 1990 đến 2013, Hoa Kỳ đã nhận 24.2 triệu di dân hợp pháp, trung bình mỗi năm là khoảng 1 triệu người.[6]
Gần đây nhân dân Mỹ phàn nàn rất nhiều về tình trạng đảng phái cấu xé nhau tàn tệ tại Quốc hội. Một trong những hậu quả đã xẩy ra là việc chánh phủ đã buộc phải đóng cửa 16 ngày trong năm 2013. Một cường quốc lãnh đạo mà đã để xẩy ra tình trạng như vậy không thể không mất uy tín và lòng tin cậy của thế giới. Một việc kéo dài từ vài năm nay chưa giải quyết được là chương trình y tế “Patient Protection and Affordable Care Act” (PPACA) gọi tắt là Obamacare do sự xung khắc về quyền lợi mà hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ đại diện. Tuy nhiên đây là chuyện nội bộ của nước Mỹ.
Tồi tệ hơn là chương trình ngoại thương Hợp tác xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership, viết tắt là TPP) liên quan đến 11 nước khác đã kéo dài nhiều năm. TPP đã không kết thúc được vào năm vừa qua như mong muốn. 2015 có thể là năm dứt điểm vì tình trạng căng thẳng ở Biển Đông và sự cạnh tranh của Trung Quốc và Nga qua việc thành lập Ngân hàng Đầu tư Hạ tầng Cơ sở Á Châu (Asian Infrastructure Investment Bank viết tắt là AIIB) và Liên hiệp Kinh tế Âu Á (Eurasian Economic Union, viết tắt là EAEU). Tuy nhiên Hoa Kỳ đang vấp phải khó khăn nội bộ. Vấn đề lao động gây chia rẽ ngay trong Đảng Dân Chủ, giữa phe hành pháp và lập pháp và đàng sau là những công đoàn lao động của Hoa Kỳ.
Tôi tin trên đây là những khó khăn ngắn hạn và tạm thời. Thật vậy, truyền thông thương mại và truyền thông xã hội dân sự đã lên án gắt gao tình trạng ngưng trệ tại Washington. Một xã hội cởi mở với tự do báo chí và tự do bầy tỏ như xã hội Hoa Kỳ sẽ giúp cho Hoa Kỳ tự sửa đổi như đối với nạn kỳ thị chủng tộc và nam nữ bất bình đẳng. Cạnh tranh và hợp tác là truyền thống tạo nên sức mạnh tại quốc gia này.
Ngay sau khi chính thức thất cử trong cuộc tranh cử tổng thống vào năm 2008, TNS John McCain tuyên bố TNS Barack Obama là tổng thống của tôi và kêu gọi mọi công dân Hoa Kỳ chúc mừng TNS Obama và ủng hộ vị tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ. Ông cũng nói rằng lần đầu tiên trong lịch sử một công dân Hoa Kỳ gốc Phi châu được bầu làm tổng thống. Đây là một niềm hãnh diện lớn lao và là một bằng chứng rõ ràng rằng Hoa Kỳ đã tiến một bước rất xa về vấn đề kỳ thị chủng tộc. TNS McCain nói tiếp rằng TNS Obama và ông đã tranh luận về những khác biệt, nhưng TNS Obama đã thắng. Chắc chắn rằng những khác biệt đó vẫn còn, nhưng ông hứa rằng ông sẽ giúp TNS Obama trong quyền hạn của mình để đối phó với những thử thách trước mặt.[7]
Một thế kỷ rưỡi trước đây, Hoa Kỳ đã để lại một gương sáng cho nhân loại về tinh thần mã thượng của dân tộc Hoa Kỳ.[8] Cuộc nội chiến kéo dài bốn năm, ba tuần và sáu ngày chấm dứt vào 9-4-1865 (theo Tuyên ngôn là 9-5-1865). Tướng Robert E. Lee của quân miền Nam nhận đầu hàng với đại diện quân miền Bắc là Tướng Ulysses S. Grant tại Appomattox Court House, Virginia, qua một nghi thức giản dị nhưng trang nghiêm. Quân lính miền Nam được tự do trở về nguyên quán và không ai bị trừng phạt hay bị tù đầy. Binh sĩ tử trận được chôn chung trong cùng một nghĩa trang, ngoại trừ thân nhân muốn mang thi hài chôn cất ở nơi khác. Theo lệnh của Tướng Grant, quân miền Bắc không được ăn mừng chiến thắng. Sau này Tướng Lee trở thành viện trưởng của một đại học nay gọi là Washington and Lee University tại Lexington, Virginia. Ông chống lại toan tính tổ chức nổi loạn tiếp tục chống lại chánh phủ liên bang, ủng hộ việc giúp cựu quân nhân miền Nam hội nhập vào xã hội Hoa Kỳ, và kiến thiết lại đất nước.
Gần đây hơn, sau khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt, Hoa Kỳ đã không hề chủ trương chém giết những kẻ thua trận mà trái lại còn giúp các nước đồng minh và cả các nước cựu thù xây dựng lại những đổ vỡ. Hoa Kỳ chi khoảng $13 tỉ (tương đương với $120 tì theo thời giá bây giờ) qua Chương trình Phục hồi Âu Châu (European Recovery Program, viết tắt là ERP) hay còn gọi là Kế hoạch Marshall, theo tên của Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ George Marshall. Tướng Douglas MacArthur, Tư lệnh Quân lực Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương, chỉ huy lực lượng chiếm đóng Nhật Bản từ 1945-1951, đã giúp nước này soạn thảo hiến pháp mới, loại bỏ quyền tư lệnh tối cao của Hoàng đế Nhật Bản, cải tổ nước Nhật thành một nước dân chủ, thực hiện chương trình cải cách ruộng đất. Ngày nay, dân Nhật coi MacArthur là một trong những người có công lớn trong việc tái thiết nước Nhật. [9]
Sau hết nhưng không kém phần quan trọng là lòng yêu chuộng tự do của nhân dân Hoa Kỳ. Tự do giúp con người phát triển năng khiếu và sáng kiến. Tự do giúp sự thông tin được nhanh chóng, đa chiều và trung thực hơn, giúp mọi người bầy tỏ lập trường dễ dàng và như vậy dễ tìm được chân lý. Tự do, trái ngược với sự bưng bít, giúp xã hội cởi mở, hạn chế được những sai trái và tội phạm.
Tự do tất nhiên đưa đến dân chủ. Phần lớn các nước dân chủ đều là những nước giầu có. Kinh tế gia đoạt giải Nobel người Ấn Độ Amartya Sen nghiên cứu về nạn nghèo đói và dân chủ đã đưa ra một lời tuyên bố nổi tiếng: “Không bao giờ có một nạn đói nào đáng kể xẩy ra ở một nước độc lập, dân chủ và có tự do báo chí.” [10] Nạn đói chỉ xẩy ra ở những độc tài hay bị chiếm đóng.
Tương tự như vậy, tham nhũng thường lan rộng ở những nước thiếu dân chủ. Hậu quả của tham nhũng là không đạt được sự chọn lựa tốt nhất gia, tăng phí tổn, làm hại đến sự sáng tạo, và nuôi dưỡng tội phạm. Những bằng chứng cụ thể từ những cuộc nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cho thấy rằng tham nhũng làm giảm đầu tư (nội địa cũng như nước ngoài), giảm phát triển, giới hạn giao thương, làm sai lệch chi phí quốc gia, làm suy yếu hệ thống tài chánh, và củng cố nền kinh tế đen (underground economy). Quan trọng hơn cả là tham nhũng làm tăng sự nghèo nàn và chênh lệch lợi tức. [11] Tham nhũng và tình trạng phe đảng, con ông cháu cha (cronyism) tại Trung Quốc và Nga sẽ tiếp tục nhận chìm những nhân tài và khả năng cạnh tranh của hai nước này. [12]
Trong bảng xếp hạng về mức độ tham nhũng tại 177 quốc gia trên thế giới vào năm 2014 do Transparency International thiết lập, đứng đầu danh sách (trong sạch nhất) là Đan Mạch, kế đến là New Zealand, Phần Lan, Thụy Điển và Na Uy. Hoa Kỳ đứng hạng thứ 17. Trung Quốc:100. Việt Nam: 119. Nga: 136. [13] Hoa Kỳ có thể cố gắng hơn để cải tiến hơn nữa về lãnh vực này.
Môi trường tự do dân chủ và một nền văn hóa siêu việt đã giúp cho nền kinh tế Hoa Kỳ phát triển như hiện nay với lợi tức đầu người tính theo mãi lực quân bình vào năm 2013 là $53,042, xếp hạng sau bẩy nước mà phần đông là những nước sản xuất dầu: Qatar, Kuwait, Singapore, Brunei, Na Uy, Thụy Sĩ, và Saudi Arabia. Hoa Kỳ bỏ xa Nga ($25,248) và Trung Quốc ($11,906). [14]
GS Jonathan Adelman thuộc University of Denver viết: “Một câu châm ngôn chính trị xưa nói rằng ‘Anh không thể đánh bại một ai nếu người đó không có đối thủ.’ Ngay bây giờ không có một nước nào hiện ra ở chân trời sẽ bắt kịp hoặc là thử thách Hoa Kỳ một cách nghiêm chỉnh trong thời hạn một hay hai thập niên sắp tới.”15]
Sau khi viết bài nhận định này gần xong, dựa trên những dữ kiện vừa phân tách, tôi có khuynh hướng đồng ý với nhận định của GS Adelman. Hoa Kỳ sẽ tiếp tục là một đại cường quốc về kinh tế cũng như về quân sự không bị thử thách trong một tương lai có thể thấy được. Nga và Trung Quốc còn khá lâu mới có thể là đối thủ cân xứng với Hoa Kỳ. Thay đổi một thể chế chính trị cần vài năm. Cải tổ một nền văn hóa cần vài thế hệ cho đến vài thế kỷ để trở thành một nước vĩ đại.
Chú thích:
[1] Jonathan Adelman, “Why the U.S. Remains the World’s Unchallenged Superpower,” Forbes, November 24, 2013.
[2] Wikipedia, “Non-government Organization,” May 28, 2015.
[3] Theo thống kê của tổ chức OECD, Labor – Productivity Levels in the total economy, May 27, 2015.
[4] Richard Florida, “America’s Looming Creativity Crisis,” Harvard Business Review, October 2004.
[5] Như trên.
[6] Wikipedia, “Immigration to the U.S.”, May 28, 2015.
[7] John McCain, “McCain’s Concession Speech,” The New York Time, November 4, 2015.
[8] Vũ Ngọc Tấn, “Tinh Thần Mã Thượng Trong Nội Chiến Mỹ,” Việt Luận, 12-2011.
[9] Wikipedia, “Marshall Plan”, May 28, 2015.
[10] Amartya Sen and Amartya K. Sen, “Poverty and Famines – an Essay on Entitlement and Deprivation”, Oxford University Press, London, 1983.
[11] The World Bank, “The Economic and Social Consequences of Corruption in Transition Countries.”
[12] Susan Adams, “The World’s Most Competitive Countries,” Forbes, May 30, 2013.
[13] Transparency International, “Corruption Perceptions Index 2014,” 2014.
[14] Theo số thống kê của World Bank.
[15] Như chú thích (1).
Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Ông Nguyễn Quốc Khải nguyên là tham vấn và chuyên viên nghiên cứu kinh tế tại Ngân Hàng Thế Giới. Ông cũng từng làm tham vấn cho Đài Á Châu Tự Do và là giáo sư thỉnh giảng (professorial lecturer) tại Johns Hopkins University.

Nhậu và Nói Phét Vẫn “Hạnh Phúc” Hơn Đọc Sách?

Nỗi buồn “người Việt ít đọc sách”
Tác Giả: Song Chi – RFA – 31 May 2015
Người Na Uy thích đọc crime
Thường xuyên dạo qua các cửa hàng sách ở Oslo hoặc ghé Thư viện lớn Deichmanske ở khu trung tâm thành phố để mượn sách, đĩa DVD phim, âm nhạc, tôi nhận thấy sách thuộc thể loại crime fiction-tiểu thuyết trinh thám, điều tra vụ án các loại, chiếm khá nhiều trên các kệ. Từ những tác giả thuộc hàng best seller của thế giới: James Patterson, Harlen Coben, Lee Child, John Grisham, Mo Hayder, John LeCarre…cho tới các tác giả Bắc Âu: Jo Nesbø, Liza Marklund, Camilla Läckberg, Hakan Nesser…Đi trên xe bus, metro, xe điện…nếu thấy một người Na Uy nào đó đang đọc sách thì chín trong mười trường hợp là một cuốn thể loại crime.
Không chỉ được dịch, đọc nhiều mà về mặt sáng tác, các quốc gia Scandinavia Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy cũng khá mạnh về hai thể loại crime và sách cho thiếu nhi. VN cũng đã có dịch một số tác giả của họ như nhà văn Thụy Điển Henning Mankell với loạt truyện về thanh tra Kurt Wallander (“Chậm một bước”, “Tường lửa”, “Bầy chó Riga”), nhà văn Thụy Điển Stig Larsson với bộ ba tiểu thuyết Millenium (Thiên niên kỷ) “Cô gái có hình xăm rồng,” “Cô gái đùa với lửa”, “Cô gái chọc tổ ong bầu” (trong đó “Cô gái có hình xăm rồng” đã được quay thành phim nhưng bản của Mỹ với 2 diễn viên chính Daniel Craig, Rooney Mara có vẻ nhiều người biết hơn bản phim ra đời trước của Thụy Điển), hay loạt sách thiếu nhi của nhà văn nữ Thụy Điển Astrid Lindgren với “Pippi tất dài” “Mio con trai ta”, “Karlsson trên mái nhà”…
Nếu ai đó chỉ đọc những cuốn crime mà chưa từng ghé thăm hoặc sinh sống ở các quốc gia Bắc Âu thì cứ ngỡ như mấy xứ này toàn tội phạm giết người máu lạnh các kiểu hay những vụ án động trời. Trong khi ngược lại đời sống ở các quốc gia Bắc Âu phải nói là quá bình yên. Những năm gần đây khi những vụ tấn công khủng bố từ các nhóm Hồi giáo cực đoan trên thế giới xảy ra ngày càng nhiều trong lúc tình trạng người nhập cư từ các quốc gia Hồi giáo Trung Đông, Bắc Phi gia tăng khá nhanh tại các nước Bắc Âu, chính phủ và người dân cũng có phần lo ngại; và thực tế cũng đã có vài vụ xảy ra (mới đây nhất là 2 vụ xả súng có tính chất khủng bố ở Copenhagen, Đan Mạch ngày 15.2 làm ít nhất 7 người thương vong). Nhưng nhìn chung xã hội của các quốc gia Bắc Âu vẫn khá là êm đềm.
Chợt nghĩ, phải chăng chính vì đời sống quá bình yên nên người ta lại thích đọc crime để tìm cảm giác mạnh, kích thích đầu óc? Chứ còn ở VN thể loại crime đâu có phát triển quá mạnh như vậy. Là bởi vì hàng ngày chỉ cần giở tờ báo ra, bật TV lên, hoặc đi ra đường…cũng có thể đọc, xem, hoặc chứng kiến bao nhiêu vụ cướp, giết, hiếp, với mức độ tàn nhẫn, dã man, kể cả các cách thức tẩy xóa dấu vết, phi tang xác chết…nào có thua kém gì trong sách, trong phim? Ngày nào cũng nghe, cũng thấy, ngán đến tận cổ, cần gì phải tìm đọc ở đâu nữa?
Người Việt ít đọc sách nói chung
Ở VN bây giờ, riêng giới trẻ, học sinh cấp 2 cấp ba, sinh viên, thì đã rõ loại sách được phần đông các em đọc nhiều mấy năm gần đây là tiểu thuyết ngôn tình Trung Quốc hay văn học mạng với những cuốn tiểu thuyết tình cảm dễ đọc, đầu tiên xuất hiện trên mạng sau đó được in thành sách. Khác hơn, các bạn trẻ có thể lựa chọn những cuốn sách được biết đến nhiều hoặc đã được chuyển thể thành phim như “Trò chơi sinh tử” (“The hunger’s game”), “Harry Potter”, (“The “Chúa tể những chiếc nhẫn” Lord of the Rings”).. hay loạt sách “Hạt giống tâm hồn”.
Còn các lứa tuổi khác, các thành phần khác trong xã hội thì thú thật không rõ mọi người đọc sách gì nhiều. Hình như chưa có ai làm một cuộc khảo sát về vấn đề này và nếu có, người viết bài này cũng không được biết. Nhưng có một thực tế đáng buồn là người VN ít đọc sách, kết luận này được rút ra từ… năm 2013, do Bộ Văn hóa-Thông tin và Du lịch công bố nhân Ngày hội Sách và Văn hóa đọc tháng 4.2013.
“Theo thống kê hàng năm dựa trên báo cáo của các thư viện gửi về Bộ, người Việt đọc trung bình 0,8 cuốn sách/người/năm (tức là chưa được 1 cuốn sách). Tỉ lệ sách bình quân đầu người tại các thư viện công cộng là 0,38 cuốn” (“Giật mình! người Việt không đọc nổi 1 cuốn sách/năm” VietnamNet).
Và nếu gõ google cụm từ “người Việt ít đọc sách” sẽ cho ra hàng loạt bài viết về vấn đề này và về số liệu này. Chẳng hạn, bài viết trên báo VietnamNet “Cả năm không đọc nổi cuốn sách, tri thức ở đâu?” cho biết: “Không thiếu những cuốn sách quý chở tư tưởng hiện đại và tư duy mới về Việt Nam, được dịch thuật một cách kì công. Nhưng câu chuyện về vỏn vẹn 500 bản in cho mỗi đầu sách quý này, tính trên số lượng 88 triệu dân – tức là chỉ có xấp xỉ 0,00057% dân số tiếp cận – quả là một con số giật mình.”
Và người viết bài này tin rằng cho đến hôm nay, tình trạng trên cũng chưa có gì cải thiện, nên nếu có nói đến vấn đề này cũng không có gì là cũ cả. Ví dụ, một bài báo mới đây trên báo Người Lao Động, tháng 4.2015 có tựa đề: “Ham uống rượu, lười đọc sách”: “Mỗi năm, một người Việt Nam đọc chưa đến 1 cuốn sách nhưng cả nước chi đến 3 tỉ USD tiền mua bia. Ham uống rượu, bia, lười đọc sách là “đặc sản” của nhiều người dân ta.”
Lý do của việc lười đọc sách ở nhiều người VN, báo chí cũng đã ít nhiều đề cập đến. Nhìn chung ở VN chưa xây dựng được một nền văn hóa đọc đúng nghĩa. Thói quen đọc sách của con người thường phải được hình thành từ khi còn nhỏ, từ nhả trường, thông qua các thầy cô giáo trực tiếp dạy dỗ các em, và gia đình, thông qua các bậc phụ huynh.
Nếu ngay từ khi ở nhà trẻ, mẫu giáo cho đến tiểu học, trung học, các thầy cô giáo và các bậc phụ huynh đọc sách cho trẻ nghe hàng ngày, khuyến khích trẻ đọc sách, lớn hơn một chút thì cùng đọc với con, hay ít nhất tìm mua sách hay về cho con đọc…thì sẽ tạo thành thói quen ham đọc sách trong các em và ngược lại.
Thực tế, học sinh VN phải chịu một chương trình học quá nặng nề trong suốt những năm tiểu học rồi trung học. Ở các thành phố lớn, hầu hết các em ngoài việc học ở trường còn phải dành thì giờ đi học thêm, về đến nhà buổi tối phải làm bài tập ở trường và nơi học thêm, ngày thứ bảy, chủ nhật rồi mùa hè cũng phải đi học, còn thì giờ đâu mà đọc sách ngoài sách giáo khoa? Ở nông thôn hay vùng sâu vùng xa, các em ngoài lúc đến trường còn phải phụ gia đình làm ruộng làm vườn, hoặc làm thêm đủ thứ công việc khác để mưu sinh, nên cũng chẳng có thì giờ đọc sách.
Đa số các bậc phụ huynh bây giờ đều quá bận bịu với việc kiếm tiền nên chính họ còn không có thì giờ đọc sách và cũng không cảm thấy nhu cầu đọc sách (chỉ trừ một thiểu số làm những công việc có liên quan đến chữ nghĩa, văn hóa, văn chương…hoặc có niềm đam mê đọc sách) thì làm sao khuyến khích được con? Có thể kể ra rất nhiều ví dụ về việc nhiều gia đình sẵn sàng bỏ tiền mua cho con những thứ vô cùng đắt tiền từ iPhone, trò chơi điện tử… cho tới xe gắn máy, khi đi chơi thì dẫn con vào những khu vui chơi giải trí, khu chơi game…nhưng ít khi dẫn con vào hiệu sách, thư viện hoặc mua cho con quà tặng là những cuốn sách hay. Có những gia đình khác thì lại sợ con đọc sách mất thì giờ, nên “lệnh” cho con là phải ưu tiên việc học và học trước cái đã.
Tôi có một ví dụ cụ thể về chuyện này.
Khi rời nước ra đi, một trong những nuối tiếc lớn nhất của tôi là bỏ lại tủ sách hàng ngàn cuốn, trong đó ngoài sách triết học, sách về điện ảnh và công việc làm phim, phần lớn còn lại là tác phẩm văn học của những tác giả lớn trong và ngoài nước. Lúc ấy một phần không có thì giờ và cũng không muốn, nên tôi không bán mà để lại toàn bộ cho người chị họ là họ hàng gần nhất ở Sài gòn và bảo cái gì không thích thì cứ bán, còn thì để cho các cháu cũng đang lứa tuổi học sinh đọc.
Nhưng người chị họ, vốn chẳng quan tâm mấy đến sách, thấy nhiều sách quá sợ chật nhà bèn kêu ve chai vô cân ký bán đến hai phần ba, còn lại cất vào những thùng carton dự tính cho hai đứa trẻ đọc, nhưng không cho đọc ngay vì còn phải đi học, và hứa là mùa hè sẽ cho phép đọc sách. Cất mãi cất mãi đến khi nhớ giở ra thì mấy thùng sách bị mọt mối ăn ruỗng gần hết.
Nghe xong tôi không còn biết nói sao. Đúng là số phận những cuốn sách rơi vào tay người không biết đọc sách là như vậy đấy. Nhưng cái tâm lý không cho con đọc sách vì sợ mất thì giờ, ưu tiên học trước đã, có lẽ không phải hiếm ở VN bây giờ. Mặc dù tôi đã nói với người chị họ cho con đọc sách, nhất là những quyển sách hay đã được chọn lọc còn có lợi hơn gấp bao nhiêu lần so với một phần không nhỏ kiến thức chết, vô bổ mà nhà trường xã hội chủ nghĩa VN đang nhồi nhét vào đầu các em hàng ngày.
Nhiều người cứ đổ thừa tại xã hội bây giờ thay đổi, nhịp sống nhanh vội, cộng thêm có nhiều phương tiện giải trí hấp dẫn như trò chơi điện tử, truyền hình, phim ảnh, internet…nên người ta lười đọc sách. Nói như thế là chưa đúng. Các nước phát triển ở châu Âu, Mỹ, Úc, hay Nhật Bản, sách vẫn có một vị trí không thể thay thế và con người vẫn đọc sách bên cạnh những thú vui giải trí khác.
Nếu bạn đi du lịch qua một số quốc gia phương Tây, luôn luôn có thể bắt gặp hình ảnh người dân tại các quốc gia này cắm cúi với một quyển sách trong lúc đang chờ xe bus hoặc đang ngồi trên xe bus, metro, xe điện, trong quán café, thậm chí những lúc ngồi chờ đến lượt vào phòng khám bác sĩ, chờ con học xong…nghĩa là mọi lúc. Những hình ảnh này rất hiếm thấy ở VN, cùng lắm là người Việt ngồi đọc báo.
Mặt khác, nhiều người Việt chúng ta bây giờ có những suy nghĩ rất lạ lùng. Như coi thường sách. Có người, tự nhận mình cũng thuộc loại trí thức, còn ra mặt khinh thường sách, coi kiến thức sách vở không quan trọng bằng kiến thức học được từ trong cuộc sống.
Có những người khác thì lại coi thường sách văn học và thể loại fiction nói chung, chỉ đọc chính trị hoặc sách cần thiết cho chuyên môn nghề nghiệp của mình. Trong số người Việt tham gia facebook và có quan tâm đến tình hình chính trị xã hội, có thể thấy kiến thức, sự hiểu biết, nhận thức về tình hình chính trị xã hội trong ngoài nước của nhiều người rất sâu sắc. Nhưng khi nói về văn hóa nghệ thuật, văn học thì lại bộc lộ những lổ hổng rất lớn. Chính từ sự coi thường nói trên.
Tất cả những suy nghĩ như thế đều là sai lầm. Kiến thức thực tế từ cuộc sống và kiến thức sách vở đều quan trọng, bổ sung cho nhau, không nên lệch lạc bên nào.
Và cho dù bạn làm nghề gì, doanh nhân, kỹ sư bác sĩ hay đang “âm mưu” làm nhà chính trị trong tương lai, đọc văn học, đọc các loại sách bổ sung kiến thức về văn hóa nghệ thuật không hề có hại gì mà chỉ có lợi. Những tác phẩm văn học giá trị của những tác giả lớn trên thế giới thường chứa đựng tính tư tưởng nhân văn cao, kiến thức xã hội mênh mông, cái nhìn sắc sảo, sâu sắc, giúp chúng ta hiểu thêm về con người, nhất là thế giới nội tâm phong phú của con người.
Đọc sách, nhất là những loại sách nghiên cứu, khoa học, triết học hay những tác phẩm văn học có giá trị, đều buộc con người phải động não suy nghĩ để hiểu, so với việc tiếp thu nghe-nhìn thụ động như khi xem TV, truyền hình. Một xã hội ít đọc sách là một xã hội dân trí thấp. Tất cả những hành vi kém văn minh, đáng buồn vẫn nhan nhản xảy ra hàng ngày, từ chen lấn xô đẩy khi xếp hảng, hôi của khi một ai đó bị tai nạn, vặt hoa cướp hoa trong hội hoa xuân, trèo rào vào tắm hồ bơi miễn phí sau đó chọc ghẹo, sàm sỡ, quấy rối tình dục các cô gái đang bơi xung quanh…cho tới những tội ác cướp giết hiếp xảy ra như cơm bữa…Có nguyên nhân do đời sống khó khăn, do con người không còn lòng tin vào luật pháp, vào chính phủ hay sự công bẳng của xã hội…Và có nguyên nhân do dân trí còn thấp.
Nếu con người phải sống trong một xã hội độc tài, bưng bít thông tin với một nền giáo dục lạc hậu, phản động, còn báo chí truyền thông phần lớn nếu không nặng tính tuyên truyền thì lại có xu hướng “lá cải”, thiếu tính nhân bản, chỉ khuyến khích con người chạy theo những giá trị vật chất như tiền bạc, xe hơi, nhà lầu, quần áo đồ dùng hàng hiệu, trưng ra hàng ngày những mẫu người được khao khát như đại gia, các cô hoa hậu á hậu chỉ cần có sắc đẹp, không cần phải lao động vất vả hay học nhiều cũng kiếm được khối tiền, sống trên nhung lụa… Trong một xã hội như vậy, con người càng rất nên đọc sách-và nếu có được ít nhất một ngoại ngữ thì quá tốt, để đọc được nhiều sách hay hơn gấp nhiều lần- để tự thoát khỏi cái đáy giếng, cái vũng lầy VN.
Con đường đi đến tự do dân chủ cho VN cũng đồng thời phải đi cùng với việc nâng cao dân trí mà kiến thức sách vở là một phần không thể thiếu.
Song Chi

Lào “sạch” hơn Việt Nam?

Ấn tượng nhà vệ sinh ở Lào
Theo: Nguyễn Văn Mỹ – Tuổi Trẻ – 28 May 2015
Tôi vừa cùng một đoàn cán bộ hưu trí tham gia hành trình xuyên Đông Dương cả tuần lễ và thấy thật ấn tượng với nhà vệ sinh ở Lào, chỗ nào cũng khá tươm tất.
Lần đầu xuyên Lào, trong đoàn nhiều người ngạc nhiên. Cứ tưởng nước họ nghèo hơn mình nên lạc hậu. Mà họ nghèo hơn mình thật. Không thấy các cao ốc, dinh thự, trụ sở hoành tráng. Đường hẹp nhưng ít xe nên tha hồ chạy. Các thị xã ở Lào xe hơi nhiều hơn xe gắn máy nhưng không nghe tiếng còi xe. Cuộc sống bình lặng, hiếu hòa, chậm rãi…
Tôi đến Lào nhiều lần nhưng ba năm nay mới trở lại. Có quá nhiều bất ngờ. Người Việt mở nhà hàng ăn uống rất thành công ở Vientiane như nhà hàng Đồng Xanh (chủ nhân người Đồng Tháp) và nhà hàng Hoàng Kim (chủ nhân người Hà Nội) có nhiều món ngon và lúc nào cũng tấp nập khách. Dao Coffee của doanh nhân Đào Hương (Việt kiều Lào) là đặc sản rất được du khách ưa chuộng.
Tuy nhiên ấn tượng nhất của chuyến đi với đoàn là nhà vệ sinh ở Lào, chỗ nào cũng khá tươm tất, có nơi chưa đẹp nhưng sạch sẽ. Du khách chẳng sợ nạn “khủng bố tinh thần” vì thiếu chỗ giải quyết đầu ra trầm kha như Việt Nam, đặc biệt là ở các tỉnh phía Bắc.
Sau khi khám phá động Tam Chang, đoàn ghé ăn trưa tại nhà hàng Manichan ở Vang Veng. Nhà hàng thoáng đãng, trang trí bắt mắt, không có máy lạnh mà trời thì nóng.
Chủ nhân nhà hàng giải thích: “Nếu gắn máy lạnh phải xử lý mùi thức ăn rất cực. Hương vị các món ăn sẽ không còn nguyên chất nên khó mà thưởng thức món ngon trọn vẹn”.
Nhà vệ sinh bên ngoài xinh xắn, cạnh cây nhãn cổ thụ, có sẵn mấy ghế bành nhỏ để khách ngồi hóng mát và đọc báo sau khi đi vệ sinh. Vào nhà vệ sinh giữa trưa mà mát rượi, phảng phất mùi trầm như ở khách sạn 5 sao. Thì ra nhà vệ sinh gắn máy lạnh.
Mấy bồn tiểu nam đều có nến thơm lung linh khử mùi. Trên mỗi bồn cầu đều có lọ hoa mẫu đơn nhỏ lịch lãm. Mẫu đơn còn gọi là bông trang, loại hoa dễ trồng, có nhiều ở Lào và các nước Asean. Giật mình vì ý tưởng sáng tạo bất ngờ mà ít tốn kém của chủ nhân.
Mới hay chưa giàu vẫn có thể sạch. Cha ông mình từng dạy “Đói cho sạch, rách cho thơm”. Cái chính là nhận thức, là văn hóa. Tôi càng hiểu vì sao là đất nước nghèo nhưng mỗi khi ra khỏi nước người Lào đều ăn mặc tươm tất, sạch sẽ để “thiên hạ khỏi cười chê”.
Ở nước ta, những chuyện nhỏ như nhà vệ sinh mà mấy chục năm chưa dứt điểm được thì nói chi chuyện lớn. Lại còn chuyện “tự sướng” với số liệu điều tra mức độ hài lòng của khách quốc tế vừa được Tổng cục Du lịch công bố: 94,09% tốt và cực tốt, chỉ 0,22% kém. Đẹp hơn cả mơ!
Cứ tô hồng kiểu đó thì vị trí “đứng đầu tốp cuối Asean” cũng đang bị lung lay chứ đừng nói tăng tốc. Xét theo hiệu quả, du lịch Việt Nam kém xa Lào và Campuchia. Dân số Lào 7 triệu người, đón 3,5 triệu khách quốc tế năm 2014. Campuchia dân số 15 triệu người, đón 4,5 triệu khách. Còn Việt Nam hơn 91 triệu dân chỉ đón được 7,9 triệu khách.
Du lịch Việt Nam muốn phát triển tốt xin hãy làm cuộc cách mạng, bắt đầu từ việc nhỏ mà nhà vệ sinh phải là một trong những ưu tiên số 1. Mong lắm thay!

Khi cái ác nắm quyền

Khi cái ác nắm quyền
Tác Giả: VietTuSaiGon – RFA – 1 June 2015
Cái ác muôn đời vẫn len lõi giữa tâm hồn và chờ lúc sự lương thiện chểnh mãn, nó sẽ ngoi dậy, đạp đỗ lương thiện để nắm lấy quyền bính, chi phối sự sống. Đó là cái ác mai phục trong mỗi tâm hồn, nói xa hơn một chút, trong xã hội, đặc biệt là chế độ chính trị chi phối xã hội đó, khi cái ác nổi lên, nắm lấy quyền bính, cũng là lúc xã hội rơi vào cơn hồn trầm, lương tri bị tùng xẻo, ý hướng làm người bị đạp đổ và bất kì những hành vi liên quan đến nhân phẩm, tình người đều trở nên xa lạ, lạc lỏng… Bài học trong hàng triệu bài học đau lòng về chuyện cái ác nắm quyền mới vừa xãy ra cách đây chưa đầy một tuần và tái hiện ở một câu chuyện khác đã diễn ra đúng 52 ngày.
Đó là chuyện hai em nữ sinh trung học phổ thông đã phải bỏ học, đi làm thuê và kết cục là uống thuốc tự tử chỉ vì người ta đã đánh tráo giữa công lý và cái ác. Cũng như câu chuyện cậu bé học sinh trung học bị nhốt 52 ngày ở nhà giam vì tòa án quyền buộc tội cậu ta cho bằng được trong khi cậu không hề có tội.
Ở câu chuyện thứ nhất, hai em nữ sinh vì nhà quá nghèo, đã bỏ học, rủ nhau lên thị xã làm thuê giúp gia đình, trên đường đi, hai em bị cảnh sát giao thông thổi, tạm giữ xe gắn máy (mà hai em mượn của hàng xóm để đi xin việc) và viết giấy phạt với mức 2,5 triệu đồng. Vì nhà quá nghèo, lại bị khủng hoảng bởi mức tiền phạt, hai cô gái đã cố gắng làm lụng kiếm tiền nộp phạt nhưng mọi chuyện bế tắc, họ rủ nhau ra rẫy uống thuốc tự tử. Trước khi uống, họ đã để lại lá thư với nội dung xin lỗi người thân vì đã bất hiếu.
Kết cục, một cô không qua khỏi, một cô đang trong tình trạng nguy kịch. Nhưng đáng sợ nhất là bà nội của cô đã chết nói với báo chí: “Uống thuốc vào, cha mẹ nó cũng phải tốn tiền chạy chữa, mất còn nhiều hơn khoản tiền nợ, hai đứa nó dại quá!”. Cái câu nói tưởng chừng như vô tâm và có chút gì đó độc địa khi so sánh khoản tiền nộp phạt với khoản tiền chạy chữa, cứu lấy sinh mạng đứa cháu của người bà, nếu ngẫm, sẽ thấy đau đớn khó mà nói cho trọn.
Cũng bởi cái nghèo, người bà đã rơi vào một khủng hoảng tâm lý khác, vừa đau đớn vì mất đứa cháu, vừa đau đớn vì đã tốn khoản tiền chạy chữa cho cháu, không thành công, mất cháu nhưng khoản tiền đóng phạt 2,5 triệu cho công an giao thông để lấy chiếc xe trả cho hàng xóm vẫn phải đóng. Mọi sự khủng hoảng, khốn cùng đã bật thành câu nói hết sức phũ phàng và đau đớn của người bà. Do đâu mà nên cớ sự như vậy? Do quá nghèo? Do sự lạc hậu? Do sự lãnh cảm cũng như tính vòi vĩnh của công an giao thông? Nếu như có tiền, hai em bé kia có cần mượn xe để đi? Và nếu có tiền, biết lót tay, hai cô gái có phải dẫn đến kết thúc bi thảm như vậy? Dường như do mọi yếu tố đã đặt trong câu hỏi tạo ra kết cục trên!
Nhưng do đâu mà có mọi tình huống đó? Câu hỏi này vô hình trung dẫn đến câu chuyện thứ hai, chuyện về cậu bé học sinh trung học phổ thông, trên đường đi học về đã bị một người lớn tuổi ngã xe vào xe của cậu tại ngã tư. Thấy người lớn nằm bất động, cậu đã gọi xe taxi đến đưa đi cấp cứu. Và kết cục của câu chuyện, cậu bị công an thi hành án đưa xe chở tù nhân đến tận trường, bắt bỏ vào xe, nhốt tù. Mãi đến 52 ngày sau, khi người ta trưng ra đủ các bằng chứng vô tội của cậu bé, chứng minh người bị ngã xe do tai biến, đột quị, sự đụng chạm vào cậu chỉ là chuyện ngẫu nhiên thì tòa án mới làm động tác “xin lại hồ sơ giám định y tế bởi nó đã thất lạc”!
Cách làm việc hết sức ầu ơ của tòa án trước mạng người đã chết và tương lai người còn sống cho thấy vấn đề nhân tính đã khủng hoảng trầm trọng. Và có một điều lạ là tại sao Sở Y tế gửi công văn giám định y tế đến tòa án, khi nhận, đương nhiên phải có người ký nhận và bàn giao cho người có quyền hạn để từ đó lấy làm cơ sở mà thẩm định, kết luận. Nhưng công văn bị mất và mọi chuyện vẫn cứ “y án”, cậu học sinh vẫn bị nhốt tù trong sự ấm ức?
Điều này không cần bàn thêm về vấn đề hồ sơ, công văn có liên quan đến vụ án, bởi tòa án Việt Nam thì miễn bàn về chuyện này và ai cũng thừa biết bản chất của nó. Cũng như không cần bàn thêm về những phi vụ mờ ám đằng sau phiên tòa, có thể là gia đình người bị chết đi đêm với quan tòa, cũng có thể vì thương con, gia đình cậu bé đã đi đêm với ngành công an để bằng mọi giá lấy chứng cứ hoặc là công bằng (nếu cậu bé không có tội) hoặc là đổi trắng thay đen. Nhưng nếu có chăng như vậy, nó cần được bạch hóa tại tòa. Đằng này một cơ quan thực thi công lý lại làm những chuyện hết sức phi lý là do đâu?
Câu hỏi này cũng nhắc người ta nghĩ đến hàng chục ngàn sinh viên đại học luật tốt nghiệp xong phải vác đơn đi xin xỏ, nịnh nọt các quan tòa để được nhận vào làm việc. Và đương nhiên những trí thức (mặc dù rất hỏng trong quá trình đào tạo đại học xã hội chủ nghĩa nhưng vẫn tốt hơn nhiều các quan tòa) này phải vào làm thuộc cấp của các quan tòa không biết gì về luật, không có năng lực, thậm chí học chuyên tu từ cấp hai cho đến đại học, đầu óc đặc sệt mưu toan tham nhũng, móc ngoặc, bòn rút, hối lộ nhưng lại không có tri thức tác nghiệp cũng như không có phẩm hạnh tương ứng cúa chức vụ đang nắm.
Và với một hệ thống như vậy, chắc chắn đó sẽ là nơi dung dưỡng của tội lỗi, sự áp phe, ép chế và tội ác. Bởi nó được sinh ra từ một hệ thống tội ác, giả đối và lấp liếm và cố chấp.
Nhưng cũng may, khi được hỏi nếu lần sau gặp lại một lần nữa trường hợp người ta ngã giữa đường, cậu có còn giúp đỡ. Cậu bé vẫn thản nhiên trả lời: Vẫn cứ giúp đỡ như thường! Câu nói của câu bé và hệ thống ứng xử của bộ máy cầm quyền như một bài toán mà ở đó, đáp án của nó là phải loại bỏ những thứ đã hết xài được để thay thế bằng cái mới giàu nhân cảm và vị tha hơn, không thối nát và không ích kỉ, nhỏ nhen như đang thấy. Chỉ có như thế mới hy vọng đất nước này tiến bộ, quật cường!